Có thể nói, con người và
môi trường như hai tấm gương lớn phản chiếu hình ảnh của nhau, những giá trị
của văn minh nhân loại được thể hiện thông qua sự tồn tại của các hình thái
khác của môi trường; tới lượt mình cuộc sống muôn màu muôn vẻ của con người lại
chính là quá trình phản ánh sự thay đổi của môi trường xung quanh. Thật vậy,
môi trường chính là nơi cung cấp toàn bộ những điều kiện thiết yếu và nguồn lưc
để con người có cơ hội sáng tạo nên tất cả những giá trị về khoa học, tinh
thần, đạo đức của chính mình. Những vấn đề mà con người phải giải quyết để phục
vụ cho quá trình tồn tại và phát triển của mình chứa đựng bản chất là hành vi
tác động và làm biến đổi môi trường. Môi trường chính là cuốn sách mà con người
tự viết lên đó lịch sử của chính mình.
Như vậy, bất cứ hành vi
nào của con người tác động tới môi trường dù tích cực hay tiêu cực sẽ đều dẫn
đến kết quả là sự tác động theo chiều ngược lại với mức độ tương xứng, thậm chí
có thể còn mãnh liệt hơn những gì chúng ta đã làm. Trong khoảng 100 năm trở lại
đây, chính những thành tựu vượt bậc về khoa học công nghệ đã dẫn tới tình trạng
là chưa bao giờ con người lại tác động tới môi trường với quy mô và cường độ
ghê gớm như thế. Quá trình phát triển kinh tế nhanh chóng, chiến tranh tàn
khốc, bệnh tật và nạn đói chính là những minh chứng rõ ràng nhất của hiểm họa
môi trường do chính chúng ta gây ra. Biến đổi khi hậu toàn cầu đang ngày càng
hiện hữu tàn khốc đe dọa trực tiếp tới cuộc sống bình yên của con người. Và
hoàn toàn có cơ sở để khẳng định rằng, môi trương sống của con người đàng bị
tổn hại và đe dọa nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, nhân
loại đã cùng nhau hợp sức hành động để bảo vệ cuộc sống của thế hệ hiện tại,
thế hệ tương lai và bảo vệ những thành quả đã gây dựng nên. Quyền
con người được sống trong môi trường trong lành được hình thành và xem
là nguyên tắc trụ cột được cộng đồng quốc tế ghi nhận và là một trong những
nguyên tắc cơ bản của pháp luật mô trường Việt Nam. Tuy nhiên, nội dung, phạm
vi của quyền này cũng như là việc thực thi trên thực tế tại Việt nam như thế
nào để đạt được mục đích cải thiện môi trường sống trong lành hơn lại là vấn đề
khá mới mẻ. Trong bản Tuyên Ngôn Đôc Lập Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Tất
cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không
ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do
và quyền mưu cầu hạnh phúc". Quyền
con người được sống trong môi trường trong lành chính là sự biểu hiện
sinh động của quyền được sống và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Với đề tài: Thực thi quyền con người được sống trong môi trường trong
lành, chúng tôi mong muốn đem lại một cái nhìn rõ ràng và toàn diện hơn về thực
trạng môi trường sống của người dân Việt Nam; những hành động của Nhà nước, xã
hội trong việc thực hiện các quy định của pháp luât cùng những thành tựu đã đạt được
trong việc thực thi quyền này trên cơ sở đó đưa ra một số ý kiến nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả trong việc thực thi quyền con người được sống trong môi
trường trong lành.
Quyền con người là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai
và bất cứ chính thể nào, đó là sự phấn đấu chung không mệt mỏi của toàn thể nhân loại, là những bảo đảm pháp
lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ cá nhân chống lại những hành động làm tổn hại
đến nhân phẩm và sự tự do cơ bản của con người, hay nói một cách khác thì quyền
con người là hệ thống giá trị toàn cầu phổ biến nhằm cống hiến cho sự linh
thiêng của cuộc sống và tạo ra một khuôn khổ để xây dựng hệ thống quyền con
người, được các quy phạm và tiêu chuẩn quốc tế bảo vệ. Nó được gi nhận trong
hầu hết các đạo luật của các quốc gia trên thế giới, được khẳng định một cách
cụ thể rõ ràng trong bản Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (1948). Theo đó các
quyền cơ bản của con người bao gồm quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu
hạnh phúc và quyền được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật.Bên cạnh đó quyền con
người còn có thể bao gồm các quyền đặc trưng khác trong mỗi lĩnh vực riêng
biệt. Và trong lĩnh vực môi trường thì đại đa số các nước trên thế giới đều
thừa nhận một quyền riêng biệt của con người đó là quyền được sống trong môi
trường trong lành
Như đã đề cập ở trên thì
con người trên thế giới đều có quyền được sống trong một môi trường trong lành.
Vậy thế nào là môi trường? và hiểu thế nào cho đúng về môi trường trong lành?
Theo định nghĩa của
UNESCO (1981) thì môi trường của con người bao gồm toàn bộ các hệ thống tự
nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình (đô thị,
hồ chứa...) và những cái vô hình (tập quán, niềm tin, nghệ
thuật...), trong đó con người sống bằng lao động của mình, họ khai thác các tài
nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình. Như vậy,
môi trường sống đối với con người không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng và phát
triển cho một thực thể sinh vật là con người mà còn là “khung cảnh của cuộc
sống, của lao động và sự nghỉ ngơi của con người”. Còn theo định nghĩa tại
khoản 1 Điều 3, Luật Bảo vệ Môi trường 2005 thì: “Môi trường bao gồm các yếu tố
tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con
người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con
người và sinh vật.". Ở trong đề tài này, nhóm chỉ đề cập đến khái niệm môi
trường theo nghĩa hẹp. Theo đó, thì môi trường sẽ bao gồm các thành phần : đất,
nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái
vật chất khác.
Với khái niệm môi trường
như trên thì ta có thể hiểu một cách khái quát về môi trường trong lành. Đó là
một môi trường không bị ô nhiễm, đảm bảo cuộc sống được hài hòa với tự nhiên. Ở
đây, cần hiểu rằng môi trường không bị ô nhiễm là môi trường mà con người có
thể tồn tại và phát triển chứ không phải là một môi trường trong sạch lý tưởng.
Hay nói cách khác thì đó là môi trường đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường theo
quy định của pháp luât.Tại khoản 5 điều 3 Luật bảo vệ môi trường thì : tiêu
chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi trường
xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường”, và
theo quy định tại Điều 10 Luật bảo vệ môi trường 2005 thì hệ thống tiêu chuẩn
môi trường quốc gia bao gồm: tiêu chuẩn về chất lượng môi trường xung quanh và
tiêu chuẩn về chất thải, trong đó: tiêu chuẩn về chất lượng môi trường xung
quanh quy định giá trị giới hạn cho phép của các thông số môi trường phù hợp
với mục đích sử dụng thành phần môi trường, còn tiêu chuẩn về chất thải quy
định cụ thể giá trị tối đa các thông số ô nhiễm của chất thải bảo đảm không gây
hại cho con người và sinh vật. Như vậy, môi trường trong lành theo nguyên tắc
đảm bảo quyền con người được sống trong môi trường trong lành được hiểu là môi
trường không bị ô nhiểm, đáp ứng các tiêu chuân vè môi trường theo quy định của
pháp luật.
Tuyên bố của Liên hợp
quốc về môi trường đã đưa ra quyền của con người được sống trong một môi trường
trong lành thành một nguyên tắc của quan hệ giữa các quốc gia và luôn ở vị trí
đầu tiên trong các nguyên tắc. Nguyên tắc 1 Tuyên bố của Hội nghị Liên hợp quốc
về môi trường con người (Tuyên bố Stockholm – năm 1972) nêu rõ: “Con người có
quyền cơ bản được tự do, bình đẳng và đầy đủ các điều kiện sống, trong một môi
trường chất lượng cho phép cuộc sống có phẩm giá và phúc lợi mà con người có
trách nhiệm long trọng bảo vệ và cải thiện cho các thế hệ hôm nay và mai sau.”[1]
Nguyên
tắc 1 Tuyên bố của Hội nghị Liên hợp quốc về Môi trường và phát triển (Tuyên bố
Rio de Janeiro – 1992) cũng khẳng định: “ Con người là trung tâm của những mối
quan tâm về sự phát triển lâu dài. Con người có quyền được hưởng một cuộc sống
hữu ích, lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên.”[2]
Dưới góc độ pháp lý thì
chất lượng môi trường xung quanh đạt tiêu chuẩn cho phép. Quyền được sống trong
một môi trường trong lành là quyền tự nhiên của con người, là quyền rất quan
trọng vì nó liên quan trực tiếp đến chất lượng cuộc sống[3].
Quyền của con người được
sống trong một môi trường trong lành được hiểu là quyền được sống trong một môi
trường với chất lượng cho phép, cuộc sống được đảm bảo về mặt vệ sinh môi
trường, được hài hóa với tự nhiên. Hay nói cách khác, là quyền được sống trong
một vùng không bị ô nhiễm, không bị suy thoái môi trường[4].
Quyền con người (QCN) đối
với môi trường là một trong những quyền thuộc nhóm quyền thứ ba (quyền được
hưởng hòa bình, quyền phát triển và quyền được sống trong môi trường trong
lành) được ghi nhận vào những năm 80. Điều này đã được phản ánh trong Báo cáo
phát triển con người năm 2000, một tuyên bố mang tính bước ngoặt về Quyền con
người khi được gắn với phát triển con người “Xóa nghèo là một thách thức chính
của Quyền con người thế kỷ XXI. Một mức sống phù hợp, chăm sóc, giáo dục tử tế,
việc làm và bảo vệ chống lại thiên tai không chỉ là mục tiêu phát triển, mà là
Quyền con người”. Nhóm quyền thứ ba này là sự thể hiện tốt nhất tính thống nhất
của các quyền, vì chúng đòi hỏi phải có hợp tác quốc tế và xây dựng cộng đồng.
Sự cần thiết phải xây dựng Tuyên ngôn về Quyền con người đối với môi trường đã
được nhận thức và hưởng ứng tại nhiều nước trên thế giới.
Nội dung của quyền con
người được sống trong môi trường trong lành chứa đựng trong các văn bản quốc tế
và các văn bản quốc gia. Trong những thập kỷ cuối của thế kỷ 20 đến nay, quyền
sống của con người mắc dù được đảm bảo hơn về mặt pháp lý bằng các thể chế dân
chủ song lại bị đe dọa bởi tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường. Trong
điều kiện đó cuộc sống của con người phải gắn chặt với môi trường. Nội dung
nguyên tắc quyền con người được sống trong môi trường trong lành được ghi nhận
trong tuyên bố stoc khom và tuyên bố Riô De Janeiro và chi phối xây dựng chính
sách pháp luật quốc gia. Việt nam là quốc gia ký 2 tuyên bố này có trách nhiệm
biến quyền được sống trong môi trường trong lành là nguyên tắc pháp lý và thực
tế đó là một nguyên tắc của luật môi trường Việt nam. Đòi hỏi cơ bản của nguyên
tắc này là mọi quy phạm pháp luật môi
trường, mọi chính sách pháp luật về môi trường phải lấy việc đảm bảo điều kiện
sống của con người trong đó đảm bảo điều kiện môi trường là ưu tiên số một.
Hiến chương Liên hợp quốc
(LHQ) năm 1945 thiết lập những nguyên tắc cơ bản về tôn trọng nhân phẩm, giá
trị vốn có, bảo vệ quyền và các tự do cơ bản của con người. Tiếp sau đó, Đại
hội đồng LHQ đã ban hành một loạt các tuyên bố và công ước quốc tế về quyền con
người, chính thức đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển ngành luật quốc
tế về quyền con người..
Các văn bản quốc tế có
chứa đựng những quy định về quyền con người được sống trong môi trường trong
lành: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền 1948; Nghị quyết của Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc năm 1962 : sự phát triển kinh tế và bảo vệ thiên nhiên; Các Công ước
quốc tế về các quyền chính trị, dân sự, văn hóa, xã hội năm 1966; Tuyên bô
Stốc-khôm về các vấn đề môi trường năm 1972; Tuyên bố Reo de Janeiro về môi
trường và phát triển 1992; Tuyên bố Johanesbury năm 2002 về phát triển bền
vững.
Tuyên bố Stockholm năm
1972 được xác định là cột mốc đầu tiên cho sự gắn kết hai vấn đề tưởng chừng là
hai lĩnh vực riêng biệt trong hoạch định chính sách công, nhưng lại có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau.Trong Tuyên bố Stockholm, Nguyên tắc 1 đã thiết lập nền
tảng mối quan hệ giữa quyền con người với bảo vệ môi trường, rằng: “con người
có các quyền cơ bản về tự do, bình đẳng và điều kiện sống tối thiểu trong môi
trường trong lành, bình đẳng cho phép con người có cuộc sống trong nhân phẩm và
hạnh phúc”.
Tiếp đó, Hội nghị thượng
đỉnh thế giới về Môi trường và phát triển bền vững năm 1992 tại Rio de Janeiro,
Brasil, đã tuyên bố rằng con người “có quyền được sống một cuộc sống lành mạnh
và sản xuất trong sự hòa hợp với thiên nhiên” (Nguyên tắc 1) và quy định rằng
các quốc gia nên hợp tác hiệu quả để ngăn cản hoặc ngăn chặn việc di dời và
chuyên giao cho các tiểu bang khác các hoạt động gây ra các chất được cho là có
hại cho sức khỏe của con người (Nguyên tắc 14) và đã đưa ra công thức liên kết
giữa quyền con người và bảo vệ môi trường trong một số thuật ngữ có tính thủ
tục. Nguyên tắc 10 tuyên bố: “Vấn đề môi trường phải được giải quyết một cách
tốt nhất với sự tham gia của tất cả các cá nhân liên quan, ở cấp độ thích hợp.
Cấp độ quốc gia, mỗi cá nhân sẽ được tiếp cận thông tin thích hợp liên quan đến
môi trường, do các cơ quan công quyền lưu giữ, bao gồm cả thông tin về các chất
và hoạt động nguy hiểm trong cộng đồng của họ, và có cơ hội được tham gia trong
quá trình ban hành các quyết định…”. Nguyên tắc này có ý nhấn mạnh đến việc tôn
trọng và đảm bảo thực thi QCN như một trong những điều kiện cần thiết để BVMT.
Quyền đối với sự tham gia, thông tin và biện pháp khắc phục đối với các điều
kiện môi trường như vậy được hình thành trọng tâm của Tuyên bố Rio, Tuyên bố
này quy định về sự tham gia của các thành phần khác nhau của dân số: phụ nữ
(Nguyên tắc 20), thanh niên (Nguyên tắc 21), và người dân bản địa và cộng đồng
địa phương (Nguyên tắc 22). Tham gia cộng đồng cũng được nhấn mạnh trong Chương
trình nghị sự 216. Chương 23 tuyên bố rằng: Một trong những điều kiện tiên
quyết cơ bản để đạt được sự phát triển bền vững là sự tham gia rộng rãi công
chúng trong việc ra quyết định.
Nếu như Tuyên bố
Stockholm năm 1972 khẳng định BVMT như điều kiện cần thiết đảm bảo QCN, Thì
Tuyên bố Rio, 1992 coi việc tôn trọng và đảm bảo QCN là quan trọng trong việc
hoạch định chính sách BVMT. Hiên nay ở châu Phi, châu Âu và châu Mỹ, các công
ước nhân quyền khu vực đều cung cấp các bảo đảm cụ thể để bảo vệ quyền sức khỏe
môi trường; công nhận tầm quan trọng của sự tham gia của cộng đồng liên quan
tới các quyết định về môi trường. Có khoảng 60 nước trên thế giới đã công nhận
trong Hiến pháp về quyền sức khỏe môi trường.
Trong những năm qua, Đảng
và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết và không ngừng hoàn thiện
hệ thống chính sách, pháp luật nhằm kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội có
liên quan tới bảo vệ môi trường và hệ sinh thái.
“Kế hoạch quốc gia về Môi
trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000” (Quyết định số 187- CT ngày
12 thánh 6 năm 1991) đặt tiền đề cho quá trình phát triển bền vững ở Việt Nam.
Chỉ thị số 36-T/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ chính trị về tăng cường công
tác BVMT trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước, trong đó nhấn mạnh: “BVMT là một nội
dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng đảm
bảo phát triển bền vững , thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”. Quan điểm phát triển bền vững còn được khẳng định trong văn kiện Đại
hội Đảng lần thứ IX (2001) và trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2001-2010, theo đó, “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh
tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và BVMT và “phát triển kinh
tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa
giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”.
Trong Nghị quyết số 41/NQ/TW ngày 15/11/2004, Bộ Chính trị đặc biệt nhấn mạnh
quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội Đảng lần thứ X (2006) đã rút ra 5
bài học kinh nghiệm lớn từ thực tiễn 20 năm Đổi mới, trong đó có “bài học phát
triển nhanh và bền vững”.
Cam kết về BVMT và phát
triển bền vững trên cấp độ quốc tế, Việt Nam đã phê chuẩn “Công ước khung của
LHQ về BĐKH” (UNFCC) năm 1994 và phê chuẩn Nghị định Kyoto ngày 17/8/2004, Thủ
tướng Chính phủ đã phê chuẩn “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt
Nam)- khung chiến lược bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các
bộ, ngành, địa phương, các tổ chức, cá nhân có liên quan triển khai thực tiễn
và phối hợp hành động nhằm bảo đảm phát triển bền vững đất nước trong thế kỷ
21… Trên cấp độ quốc gia Việt Nam đã ban hành luật BVMT (1993); Luật BVMT sửa
đổi (2005) và nhiều quy định pháp lý quan trọng khác về môi trường (Luật Tài
nguyên nước, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Đa dạng sinh học… )và nhiều
văn bản dưới luật đã được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý cho việc bảo vệ môi
trường, hệ sinh thái ở nước ta.
Hiến
pháp: Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử
dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động
làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường. (Điều 29).
Ở nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá
và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong
Hiến pháp và luật . (Điều 50).
Luật BVMT: Những nội dung trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký
kết, gia nhập liên quan tới việc bảo đảm thực thi quyền con người được sống
trong môi trường trong lành được thể hiện thông qua những chế định trong Luật
BVMT 2005 (Tiêu chuẩn môi trường; Chương V:Bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ; Bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư; Chương VII:Bảo vệ môi trường biển, nước sông
và các nguồn nước khác; Chương VIII:Quản
lý chất thải; Chương IX:Phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường, khắc
phục ô nhiễm và phục hồi môi trường; Chương XI:Nguồn lực bảo vệ môi trường; Chương XIII:Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước,
Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên về bảo vệ môi trường.
Để tìm hiểu sâu hơn về quyền này,
chúng tôi xin đứa ra các khái niệm cơ bản về quyền con người nói chung cũng như
khái niệm về môi trường, môi trường trong lành đáp ứng nguyên tắc đảm bảo quyền
con người được soongs trong môi trường trong lành, và mối quan hệ giữa môi
trường và quyền con người.
Từ phương diện lý luận và thực tiễn bảo
vệ môi trường và quyền con người, các học giả, các nhà hoạt động thực tiễn
trên lĩnh vực môi trường và quyền con người ở nhiều nước trên thế giới đã chỉ
ra sự tương tác qua lại giữa môi trường với sức khỏe và quyền con người. Có thể
khái quát mối quan hệ này, trên ba khía cạnh chính sau:
Thứ nhất, môi trường là vấn đề của quyền con người
Hiến chương Liên hợp quốc (LHQ) năm
1945 thiết lập những nguyên tắc cơ bản về tôn trọng nhân phẩm, giá trị vốn có,
bảo vệ quyền và các tự do cơ bản của con người; tiếp sau đó, Đại hội đồng LHQ
đã ban hành một loạt các tuyên bố và công ước quốc tế về quyền con người, chính
thức đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển ngành luật quốc tế về quyền
con người. Tuyên bố Stockholm năm 1972 được xác định là cột mốc đầu
tiên cho sự gắn kết hai vấn đề tưởng chừng là hai lĩnh vực riêng biệt trong
hoạch định chính sách công, nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trong Tuyên bố Stockholm, Nguyên tắc
1 đã thiết lập nền tảng mối quan hệ giữa quyền con người với bảo vệ môi trường,
rằng: “con người có các quyền cơ bản về tự do, bình đẳng và điều kiện sống tối
thiểu trong môi trường trong lành, bình đẳng cho phép con người có cuộc sống
trong nhân phẩm và hạnh phúc”. Tiếp đó, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về Môi
trường và phát triển bền vững năm 1992, đã đưa ra công thức liên kết giữa quyền
con người và bảo vệ môi trường trong một số thuật ngữ có tính thủ tục. Nguyên
tắc 10 tuyên bố: “Vấn đề môi trường phải được giải quyết một cách tốt nhất với
sự tham gia của tất cả các cá nhân liên quan, ở cấp độ thích hợp. Cấp độ quốc
gia, mỗi cá nhân sẽ được tiếp cận thông tin thích hợp liên quan đến môi trường,
do các cơ quan công quyền lưu giữ, bao gồm cả thông tin về các chất và hoạt
động nguy hiểm trong cộng đồng của họ, và có cơ hội được tham gia trong quá
trình ban hành các quyết định…”.
Sự gắn kết giữa môi trường và quyền
con người được thể hiện khá rõ đối với việc bảo đảm thực hiện các quyền như:
quyền được sống; sự toàn vẹn thân thể của mỗi cá nhân, của đời sống mỗi gia
đình; quyền đối với sức khỏe, thịnh vượng và phát triển của mỗi cá nhân, cũng
như nhóm và cộng đồng xã hội… Tất cả các quyền này đều phụ thuộc vào môi trường
sống, môi trường tự nhiên xung quanh con người. Và đây được xác định là cơ sở
quan trọng cho cuộc sống của tất cả mọi cá nhân, mọi cộng đồng xã hội.
Hiện nay, sức khỏe của con người đang
bị ảnh hưởng ngày càng lớn và hệ quả ngày càng trầm trọng do sự xuống cấp
nghiêm trọng của môi trường và hệ sinh thái. Và chính sự ô nhiễm môi trường, sự
hủy hoại môi trường tự nhiên đều trực tiếp tác động đến việc hưởng thụ quyền
con người của tất cả mọi người. Vì thế, nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của con
người là phải nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo đảm quyền được sống trong môi
trường trong lành, bảo đảm sức khỏe môi trường. Do vậy, cộng đồng thế giới thừa
nhận môi trường chính là vấn đề của quyền con người.
Thứ hai, bảo vệ môi trường là điều kiện tiên quyết để hiện
thực hóa quyền con người
Một sự thật hiển nhiên là, các quyền
con người không thể thực hiện được nếu môi trường không được bảo đảm, vì môi
trường có liên quan và tác động trực tiếp tới hưởng thụ nhân quyền của mỗi cá
nhân và cộng đồng. Vì vậy, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường của con
người là nhu cầu thiết yếu để bảo vệ cuộc sống con người, điều kiện tiên quyết bảo
đảm nhân phẩm và giá trị của con người, phát triển và hoàn thiện nhân cách con
người và tạo ra đặc tính thúc đẩy phúc lợi cho mỗi cá nhân, tập thể và cả cộng
đồng xã hội.
Các hoạt động của con người đã làm
cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng trên phạm vi toàn cầu và chính sự ô
nhiễm này đã gây hại cho sức khỏe con người. Do vậy quyền sống của con người
đang bị ảnh hưởng trực tiếp hàng ngày do sự ô nhiễm về không khí, ô nhiễm nguồn
nước, ô nhiễm nguồn đất…
Theo pháp luật
về môi trường và luật nhân quyền quốc tế, trách nhiệm bảo vệ môi trường và
quyền con người trước hết thuộc về Nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm tôn trọng,
bảo vệ và thực hiện các quyền con người về môi trường.
Thứ ba, bảo vệ và thực hiện tốt quyền con người là điều kiện
thiết yếu để có chính sách tốt về môi trường
Để có chính sách tốt về bảo vệ môi
trường, đòi hỏi các quyền con người phải được bảo đảm thực hiện. Nhiều nhà
nghiên cứu, nhà hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực môi trường cho rằng, để có
được chính sách tốt về môi trường chỉ có thể thông qua việc bảo đảm thực hiện
quyền tiếp cận thông tin, sự tham gia của dân chúng trong việc ban hành các
quyết định về môi trường và tiếp cận tư pháp liên quan tới môi trường. Các
quyền này được gọi là các quyền có tính chất thủ tục (Procedural rights).
Thực
tiễn cho thấy, quyền tiếp cận thông tin, sự tham của công chúng và tiếp cận tư
pháp có tác động rất lớn đền việc hiện thực hóa các quyền về môi trường. Các
quyền này nhằm giúp cho công dân đóng vai trò tích cực, chủ động hơn đối với
các quyết định, chính sách của Nhà nước có liên quan tới môi trường; thực hiện
dân chủ hóa đối với các quyết định, chính sách về môi trường, thông qua việc
đưa cá nhân, các nhóm tư nhân và những người thường xuyên hứng chịu sự tác động
và ảnh hưởng bởi sự ô nhiễm môi trường tham gia vào hoạch định chính sách có
liên quan tới môi trường. Chính sự tham gia này, sẽ hạn chế quyền lực “quan
liêu” của những người ban hành chính sách, bảo đảm sự cân bằng giữa lợi ích bảo
vệ môi trường - phát triển bền vững với nhu cầu tăng trưởng kinh tế. Và vì vậy,
việc thực hiện các quyền có tính chất thủ tục này là rất quan trọng để có được
chính sách tốt về môi trường và qua đó sẽ tạo ra một môi trường bảo đảm cho sức
khỏe, bảo vệ lợi ích số đông, lợi ích cộng đồng, bảo vệ những người dễ bị tổn
thương trong xã hội, như trẻ em, phụ nữ, người nghèo, dân tộc thiểu số
Công tác
quản lý nhà nước về môi trường của Việt Nam được thể hiện tại Điều 37 Luật Bảo vệ Môi trường, gồm các điểm:
Ban hành và tổ chức việc thực hiện các văn bản pháp quy về bảo vệ môi trường,
ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường; xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến
lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế hoạch phòng chống, khắc phục suy thoái
môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường. Xây dựng, quản lý các công
trình bảo vệ môi trường, các công trình có liên quan đến bảo vệ môi trường, tổ
chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện trạng môi
trường, dự báo diễn biến môi trường. Thẩm định các báo cáo đánh giá tác động
môi trường của các dự án và các cơ sở sản xuất kinh doanh; cấp và thu hồi giấy
chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường, giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp
hành pháp luật về bảo vệ môi trường, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, tranh
chấp về bảo vệ môi trường, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, Đào
tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi trường, Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, thiết lập quan hệ quốc
tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Trách nhiệm quản
lý nhà nước về bảo vệ môi trường của Uỷ ban nhân dân các cấp:
Theo Điều 122, Chương
XIII Luật Bảo vệ môi trường số 52/2005/QH11 được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8
thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 quy định cụ thể như sau:
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện quản
lý nhà nước về bảo vệ môi trường tại địa phương theo quy định sau đây:
a) Ban hành theo thẩm quyền quy định, cơ chế, chính sách, chương trình,
kế hoạch về bảo vệ môi trường;
b)
Chỉ đạo, tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch và nhiệm vụ về
bảo vệ môi trường;
c)
Chỉ đạo xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc môi trường của địa phương;
d)
Chỉ đạo định kỳ tổ chức đánh giá hiện trạng môi trường;
đ)
Tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường thuộc thẩm
quyền;
e)
Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường;
g)
Chỉ đạo công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về môi trường theo
quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và các quy định khác của pháp luật
có liên quan; phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh liên quan giải quyết các
vấn đề môi trường liên tỉnh.
Uỷ ban nhân dân cấp huyện có
trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường tại địa phương theo
quy định sau đây:
a)
Ban hành theo thẩm quyền quy định, cơ chế, chính sách, chương trình, kế hoạch
về bảo vệ môi trường;
b)
Chỉ đạo, tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch và nhiệm vụ về
bảo vệ môi trường;
c)
Tổ chức đăng ký và kiểm tra việc thực hiện cam kết bảo vệ môi trường;
d)
Tuyên truyền, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường;
đ)
Chỉ đạo công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về bảo vệ môi
trường theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và các quy định khác
của pháp luật có liên quan;
e)
Phối hợp với Uỷ ban nhân dân cấp huyện có liên quan giải quyết các vấn đề môi
trường liên huyện;
g)
Thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường theo uỷ quyền của
cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cấp tỉnh;
h)
Chỉ đạo công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của Uỷ ban nhân dân cấp
xã.
Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách
nhiệm thực hiện quản lý nha nước về bảo vệ môi trường tại địa phương theo quy
định sau đây:
a)
Chỉ đạo, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường, giữ
gìn vệ sinh môi trường trên địa bàn, khu dân cư thuộc phạm vi quản lý của mình;
tổ chức vận động nhân dân xây dựng nội dung bảo vệ môi trường trong hương ước
của cộng đồng dân cư; hướng dẫn việc đưa tiêu chí về bảo vệ môi trường vào
trong việc đánh giá thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc và gia đình văn hóa;
b) Kiểm tra
việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường của hộ gia đình, cá nhân;
c)
Phát hiện và xử lý theo thẩm quyền các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
hoặc báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cấp trên trực tiếp;
d)
Hoà giải các tranh chấp về môi trường phát sinh trên địa bàn theo quy định của
pháp luật về hoà giải;
đ) Quản lý hoạt động của thôn, làng,
ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và tổ chức tự quản về giữ gìn vệ sinh môi
trường, bảo vệ môi trường trên địa bàn
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, hệ thống cơ chế, chính
sách, pháp luật về bảo vệ môi trường đã được hoàn thiện một bước với sự ra đời
của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 và Luật Đa dạng sinh học năm 2008.
Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về môi trường đã được tăng cường với sự
ra đời của Tổng cục Môi trường có vai trò quản lý, tổ chức và điều phối các
hoạt động bảo vệ môi trường trên phạm vi cả nước.
Lực lượng cảnh sát môi trường cũng đã được hình thành, phát triển và hoạt
động ổn định, phát huy tác dụng trong đấu tranh phòng chống tội phạm về môi
trường. Các Ủy ban bảo vệ môi trường lưu vực các sông lớn, tổ chức quản lý môi
trường ở các Bộ, ngành và địa phương được thiết lập, bước đầu hoạt động có hiệu
quả.
Các
công cụ tài chính cần được đa dạng hóa, trước hết là các công cụ tài chính được
sử dụng cho mục tiêu bảo vệ môi trường, bao gồm: Các định chế tài chính - tín
dụng môi trường (quỹ môi trường, ngân hàng môi trường, các công ty đầu tư môi
trường...).
Chi
phí của nhà nước và doanh nghiệp cho bảo vệ môi trường phải thường xuyên tăng
(thực tế cho thấy, để phát triển bền vững, mức chi cho nghiên cứu khoa học- kỹ
thuật- công nghệ, giáo dục và đào tạo, cải thiện môi trường của mỗi nước thường
phải đạt tối thiểu 1,5 - 2% GDP hàng năm; riêng chi cho bảo vệ môi trường ở các
nước phát triển là 0,8-1,7% GDP). Nguồn vốn của các định chế tài chính- tín
dụng môi trường này được hình thành từ các nguồn khác nhau: ngân sách nhà nước,
quyên góp, ủng hộ tự nguyện, vốn viện trợ, vay thương mại, huy động từ xổ số,
tín phiếu môi trường, đặc biệt là từ các loại thuế và lệ phí môi trường, như:
+ Thuế tài
nguyên gồm các sắc thuế chủ yếu như thuế sử dụng đất, sử dụng nước, thuế
rừng, thuế tiêu thụ năng lượng... Mục tiêu của thuế tài nguyên là điều tiết nhu
cầu tiêu dùng tài nguyên gây ô nhiễm và suy kiệt môi trường ở mức thấp nhất có
thể.
+ Thuế môi
trường có tới trên 16 loại khác nhau trên thế giới, như thuế ô nhiễm không
khí, ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm nguồn nước, .v.v.... Mục tiêu đánh thuế này là
kích thích cải tiến và áp dụng kỹ thuật-công nghệ chống ô nhiễm, nâng cao hiệu
suất sử dụng nhiên liệu hoặc thay thế bằng nhiên liệu khác ít ô nhiễm hơn.
+ Các loại phí và lệ
phí được đưa ra theo nguyên tắc “trả tiền tiêu dùng”. Các khoản thu này
vừa trực tiếp làm tăng thu cho Quỹ môi trường, vừa có tác dụng giáo dục ý thức
cộng đồng và xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.
+ Trợ cấp và thưởng,
phạt tài chính được áp dụng nhằm chung một mục tiêu là khuyến khích và
định hướng các ngành công nghiệp sản xuất ra sản phẩm chất lượng tốt, tiết kiệm
nguyên nhiên liệu và làm cho môi trường tốt hơn.
Tuy nhiên điều cần lưu ý
là các công cụ tài chính phải được sử dụng mềm dẻo, hợp lý nhằm hạn chế thấp
nhất mặt trái của chúng đến kìm hãm phái triển kinh tế và cả đến mục tiêu bảo
vệ môi trường (như nếu đánh thuế Gas quá cao sẽ khiến người tiêu dùng chuyển
sang đun than, do đó làm tăng ô nhiễm môi trường). Đặc biệt, cần quy định rõ
các chế tài cụ thể, nhất là việc áp dụng rộng rãi hình thức "đặt cọc
- hoàn trả" cho mục tiêu ngăn chặn hiệu quả và xử lý trên thực tế các
hành vi gây ô nhiễm môi trường, trước hết trong các hoạt động:
- Xây dựng nhà ở, xây
dựng và sửa chữa đường xá.
- Buôn bán và vận chuyển
vật liệu xây dựng, hàng hóa dễ gây ô nhiễm.
- Các hoạt động sản xuất
- kinh doanh khác có khả năng tạo nguồn phát thải, gây ô nhiễm môi trường cao,
đặc biệt là các nhà hàng, quầy chợ, hộ kinh doanh mặt đường, trên bờ hồ
và hè phố, các nhà ga, bệnh viện, nhà máy và các hộ sản xuất tiểu thủ công
nghiệp...
Đối
với từng trường hợp trên, tùy điều kiện cụ thể mà tiến hành thu tiền đặt
cọc và định ra các mức thu tiền phạt khác nhau. Tiền phạt thu được sẽ được dành
phần lớn (khoảng 50%) để bồi dưỡng trực tiếp cho những đơn vị và cá nhân trực
tiếp làm công tác thanh tra, kiểm tra và thu tiền phạt vi phạm môi trường. Phần
tiền còn lại sẽ được sung quỹ môi trường thành phố (khoảng 20%) và sung vào quỹ
của phường, xã, huyện (khoảng 30%).
Theo Luật Bảo vệ Môi trường của Việt Nam “ Tiêu chuẩn
môi trường là những chuẩn mức, giới hạn cho phép, được quy
định dùng làm căn cứ để quản lý môi trường". Vì vậy, tiêu
chuẩn môi trường có quan hệ mật thiết với sự phát triển bền vững của mỗi quốc
gia. Hệ thống tiêu chuẩn môi trường là một công trình khoa học liên ngành, nó
phản ánh trình độ khoa học, công nghệ, tổ chức quản lý và tiềm lực kinh tế - xã
hội có tính đến dự báo phát triển. Cơ cấu của hệ thống tiêu chuẩn môi trường
bao gồm các nhóm chính sau:
1 . Những quy định
chung.
2. Tiêu chuẩn nước, bao gồm nước mặt nội địa, nước ngầm, nước biển và ven biển, nước thải v.v...
3. Tiêu chuẩn không khí, bao gồm khói bụi, khí thải (các chất thải) v.v...
4. Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ đất canh tác, sử dụng phân bón trong sản xuất nông nghiệp.
5. Tiêu chuẩn về bảo vệ thực vật, sử dụng thuốc trừ sâu, diệt cỏ.
6. Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ các nguồn gen, động thực vật, đa dạng sinh học.
7. Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sử, văn hoá.
8. Tiêu chuẩn liên quan đến môi trường do các hoạt động khai thác khoáng sản trong lòng Tiêu chuẩn nước, bao gồm nước mặt nội địa, nước ngầm, nước biển và ven biển, nước thải v.v...đất, ngoài biển v.v...
2. Tiêu chuẩn nước, bao gồm nước mặt nội địa, nước ngầm, nước biển và ven biển, nước thải v.v...
3. Tiêu chuẩn không khí, bao gồm khói bụi, khí thải (các chất thải) v.v...
4. Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ đất canh tác, sử dụng phân bón trong sản xuất nông nghiệp.
5. Tiêu chuẩn về bảo vệ thực vật, sử dụng thuốc trừ sâu, diệt cỏ.
6. Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ các nguồn gen, động thực vật, đa dạng sinh học.
7. Tiêu chuẩn liên quan đến bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sử, văn hoá.
8. Tiêu chuẩn liên quan đến môi trường do các hoạt động khai thác khoáng sản trong lòng Tiêu chuẩn nước, bao gồm nước mặt nội địa, nước ngầm, nước biển và ven biển, nước thải v.v...đất, ngoài biển v.v...
Trong một vài năm lại
đây, người ta đã xây dựng được một số lượng ngày càng tăng các tiêu chuẩn quốc
gia và khu vực trong lĩnh vực cấp nhãn hiệu sinh thái, quản lý môi trường và
kiểm toán. Hiện nay trên thế giới có gần 20 kế hoạch cấp nhãn hiệu sinh thái
quốc gia bao gồm cả ở một số nước đang phát triển như Brazil, ấn Độ, Hàn Quốc.
Việc xây dựng các tiêu chuẩn hệ thống quản lý môi trường đã bắt đầu vào năm
1992 với tiêu chuẩn BS 7750 của Anh đã dẫn đến việc xây dựng các tiêu chuẩn
tương tự ở một số các nước khác. ở cấp khu vực, Liên hiệp Châu Âu đã thiết lập
nhãn hiệu sinh thái cuả cộng đồng này vào năm 1992. Một kế hoạch quản lý và
kiểm toán Môi trường (EMAS) cũng đã được xây dựng vào năm 1993
Để đảm bảo củng như thực thi đúng về
quyền con người được sống trong một môi trường trong lành thì chúng ta cần có
những biện pháp, cách thức tuyên truyền giáo dục để bảo vệ môi trường, vì bảo vệ môi trường là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa quyền con
người. Một sự thật hiển nhiên là, các quyền con
người không thể thực hiện được nếu môi trường không được bảo đảm, vì môi trường
có liên quan và tác động trực tiếp tới hưởng thụ nhân quyền của mỗi cá nhân và
cộng đồng.
Chiến lược môi trường và các chương trình hành động bảo vệ môi trường của
mỗi quốc gia, mỗi địa phương phụ thuộc nhiều vào phương pháp và hiệu quả công
tác giáo dục môi trường. Trong điều kiện hiện nay, vấn đề giáo dục môi trường
trở thành một trong những vấn đề cấp bách vì sự phát triển kinh tế, văn hóa và
xã hội của loài người nhanh hơn mức độ tiến hóa của sinh quyển; vì vậy, sự tiến
hóa của sinh quyển không thể đương đầu với sự mất cân bằng môi trường gây ra
bởi sự tiến bộ kinh tế, văn hóa mà loài người tạo ra; vì các vấn đề môi trường
thường là phức tạp và đòi hỏi phải tinh thông, am hiểu các nguyên lý khác nhau.
Các hình thức của giáo dục môi trường rất đa dạng, phong phú như giáo dục
theo cá nhân, theo nhóm, theo cộng đồng; tuyên truyền giáo dục qua các phương
tiện thông tin đại chúng, phổ biến chính sách, pháp luật về môi trường; thực
hiện các dự án môi trường; tiến hành các hoạt động thông qua các tổ chức đoàn
thể, giáo dục trong nhà trường,… các phong trào bảo vệ môi trường được
phát động rầm rộ và sâu rộng trong cán bộ và nhân dân như: phong trào toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, phong trào toàn dân tham gia
bảo vệ môi trường, tổ chức mitting với chủ đề: “Thành phố xanh: Kế
hoạch cho hành tinh chúng ta”, “Nhiều loài - một hành tinh - tương lai
chúng ta”,…
Một số các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền giáo dục đối với
việc bảo vệ môi trường như:
Thứ nhất, cần xác định
rằng “bảo vệ môi trường” trong điều kiện hiện nay thì nước ta phải đối mặt với
những tác động tiêu cực của vấn đề môi trường như biến đổi khí hậu, biến đổi
nguồn nước, ảnh hưởng suy thoái nặng nề đến môi trường đất, làm cho môi trường
thực vật, động vật, vi sinh vật ảnh hưởng rất nhiều, … Vận động toàn dân tham
gia bảo vệ môi trường thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hướng dẫn,
tổ chức để nhân dân nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi theo hướng tích cực
bảo vệ môi trường, phòng chống suy thoái, ô nhiễm và sự cố môi trường: Việc
khai thác các nguồn lợi sinh vật phải theo đúng thời vụ, địa bàn, phương pháp,
bằng công cụ, phương tiện đã được qui định, bảo đảm cân bằng sinh thái. Việc
khai thác rừng phải đúng qui hoạch và các qui định của Luật bảo vệ và phát
triển rừng, phải có kế hoạch trồng rừng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc.
Việc
khai thác đất nông, lâm nghiệp, đất sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản
phải tuân theo qui hoạch sử dụng đất, bảo đảm cân bằng sinh
thái. Trong sản xuất kinh doanh, các công trình xây dựng phải áp
dụng các biện pháp hạn chế, phòng ngừa, phải thực hiện các biện pháp bảo vệ môi
trường, phải có thiết bị kỹ thuật để xử lý chất thải, bảo đảm tiêu chuẩn môi
trường,…Nhìn chung, con người phải biết ứng xử với môi trường bằng phương châm
lấy phòng ngừa và hạn chế tác động xấu đối với môi trường là chính, tích cực xử
lý ô nhiễm, suy thoái môi trường, bảo tồn thế giới tự nhiên; tránh thái độ thờ
ơ, vô trách nhiệm, tránh những hành vi tiêu cực dẫn đến vi phạm những qui định
về bảo vệ môi trường.
Thứ hai là, tăng cường
hơn nữa sự phối hợp, thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên, đặc biệt
là các cơ quan thông tin tuyên truyền, đẩy mạnh công tác tuyên truyền tạo nên
sức mạnh tổng hợp của lực lượng thông tin, làm cho các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
Thứ ba là, đẩy mạnh hơn
nữa các phong trào: “Toàn dân tham gia bảo vệ
môi trường”, “Ngày môi trường
thế giới”,…tạo thành phong trào trên địa bàn có tác dụng tích cực, thường xuyên
nhắc nhở người dân ý thức, thói quen bảo vệ môi trường. Trong nhà trường, cần
đẩy mạnh các hoạt động ngoại khóa về giáo dục môi trường, lồng ghép trong các
chương trình sinh hoạt của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên;
tổ chức các cuộc thi tìm hiểu theo chuyên đề, mời
chuyên gia báo cáo, tham quan dã ngoại tìm hiểu về môi trường địa phương, …
Xử lý vi phạm hành chính
Các quy định của pháp
luật hành chính về xử lý vi phạm môi trường bao gồm: quy định tại khoản 2 và
khoản 3, Điều 1, Nghị Định 117/2009/NĐ-CP, ngày 31-12-2009 của Chính phủ quy
định: Vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là những hành vi vi
phạm các quy định quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường do cá nhân,
tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy
định tại Nghị định này phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường, bao gồm:
a) Các hành vi vi phạm
các quy định về lập, thực hiện cam kết bảo vệ môi trường, báo cáo đánh giá tác
động môi trường, báo cáo đánh giá tác động môi trường bổ sung (sau đây gọi chung
là báo cáo đánh giá tác động môi trường), đề án bảo vệ môi trường; b) Các hành vi gây ô nhiễm môi trường; c) Các hành vi vi phạm các quy định về quản
lý chất thải; d) Các hành vi vi phạm
các quy định về bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập khẩu máy móc, thiết bị,
phương tiện giao thông vận tải, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, phế
liệu; đ) Các hành vi vi phạm các quy
định về bảo vệ môi trường hoạt động du lịch, bảo tồn và sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên; e) Các hành vi vi
phạm các quy định về thực hiện phòng, chống, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, sự
cố môi trường và các hành vi vi phạm các quy định khác về bảo vệ môi trường.
Các
hành vi vi phạm hành chính khác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không trực
tiếp quy định trong Nghị định này thì áp dụng theo quy định của pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính trong các nghị định khác có liên quan.
Điều 2, Nghị định
117/2009/ NĐ-CP quy định về đối tượng bị xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường:
1. Đối tượng bị xử phạt vi
phạm hành chính:
a) Cá nhân, tổ chức trong
nước và cá nhân, tổ chức nước ngoài (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có
hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trên lãnh thổ Việt
Nam đều bị xử phạt theo các quy định tại Nghị định này hoặc các Nghị định có
liên quan. Trong trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng theo quy định của Điều ước quốc
tế đó. b) Cá nhân là người chưa thành niên có hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường thì bị xử phạt theo quy định tại Điều 7, Pháp lệnh
Xử lý vi phạm hành chính.
2.
Cơ sở gây ô nhiễm môi trường, cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng bị áp
dụng hình thức xử lý tạm thời đình chỉ hoạt động, buộc di dời, cấm hoạt động
theo quy định tại Chương III của Nghị định này.
3. Cán bộ, công chức khi
thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường thì không bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Nghị định này
mà bị xử lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
Xử lý hình sự
Bộ luật Hình
sự 1999 đã quy định 10 hành vi phạm tội về môi trường. Mỗi điều khoản về tội
phạm môi trường (TPMT) trong Bộ Luật hình sự 1999 đều đã xác định hành vi phạm
tội, căn cứ truy cứu hình sự, định khung phạt tiền và định hình phạt tù tương
ứng với ba mức độ hậu quả gây ra: Nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng.
Luật Bảo vệ
Môi trường 2005 (sửa đổi) của Việt Nam xác định: BVMT là sự nghiệp của toàn xã
hội, quyền và trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
và tổ chức, hộ gia đình, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách
nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu các trách nhiệm khác theo quy
định của pháp luật. Đây chính là quan điểm nhất quán về quyền và trách nhiệm
của các chủ thể pháp luật đối với công tác BVMT ở Việt Nam. Trong Luật BVMT
cũng quy định 15 hành vi vi phạm môi trường cụ thể bị Nhà nước nghiêm cấm.
Tuy nhiên,
đến nay khái niệm về Tội phạm môi trường vẫn chưa được luật hóa, mà mới chỉ
được định nghĩa trong một số công trình nghiên cứu về pháp luật. Các khái niệm
về tội phạm môi trường mặc dù đã nêu
được bản chất cơ bản của loại hình tội phạm này, song vẫn chưa thể hiện được
đặc trưng và phân biệt của nó với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
môi trường. Đây có thể coi là một rào cản lớn trong việc xác định chính xác
TPMT để có thể tiến hành truy tố được loại tội phạm này.
Quy định về bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả
môi trường
Về biện pháp khắc phục
hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra, trước đây Nghị định 81/2006/NĐ-CP
chỉ quy định 05 biện pháp khắc phục hậu quả, đến nay Nghị định 117/2009/NĐ-CP
quy định cụ thể 12 biện pháp khắc phục hậu quả, góp phần khắc phục triệt để hậu
quả của hành vi vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Nghị định
117/2009/NĐ-CP quy định mới về biện pháp cưỡng chế (gồm 05 biện pháp), các
trường hợp bị cưỡng chế (gồm 03 trường hợp), thủ tục ban hành quyết định cưỡng
chế, Chủ tịch UBND cấp tỉnh có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế, chỉ đạo thực
hiện quyết định cưỡng chế, Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với
Công an cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp huyện nơi có cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và các cơ quan có liên quan tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế.
Bồi thường thiệt hại do
hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra còn là vấn đề mới ít được nghiên cứu ở Việt
nam
Việc bồi thường thiệt hại đối với môi
trường bị ô nhiễm được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 113/2010/NĐ-CP
được Chính phủ ban hành ngày 03/12/2010. Nghị định này quy định về xác định
thiệt hại đối với môi trường bao gồm việc thu thập dữ liệu, chứng cứ để
xác định thiệt hại đối với môi trường, tính toán thiệt hại đối với môi trường
và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với môi trường do ô nhiễm, suy
thoái gây ra trong các trường hợp: môi trường nước phục vụ mục đích bảo tồn,
sinh hoạt, giải trí, sản xuất và mục đích khác bị ô nhiễm, bị ô nhiễm ở mức
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng; môi trường đất phục vụ cho các mục đích
bảo tồn sản xuất và mục đích khác bị ô nhiễm, bị ô nhiễm ở mức nghiêm trọng và
đặc biệt nghiêm trọng; hệ sinh thái tự nhiên thuộc và không thuộc khu bảo tồn
thiên nhiên bị suy thoái; loài được ưu tiên bảo vệ theo quy định của pháp luật
bị chết, bị thương.
Tổ chức, cá nhân làm môi
trường bị ô nhiễm, suy thoái phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đối với môi
trường do mình gây ra, đồng thời phải chi trả toàn bộ chi phí xác định thiệt
hại và thủ tục thiệt hại yêu cầu bồi thường thiệt hại cho cơ quan ứng trước kinh
phí. Trường hợp có từ hai tổ chức, cá nhân trở lên làm môi trường bị ô nhiễm,
suy thoái thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với môi trường, trách nhiệm
chi trả chi phí xác định thiệt hại và thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường
thiệt hại của từng tổ chức, cá nhân được xác định tương ứng với tỷ lệ gây thiệt
hại trong tổng thiệt hại đối với môi trường. Tổ chức, cá nhân tuân thủ
đầy đủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, có hệ thống xử lý chất
thải đạt yêu cầu và chứng minh được rằng không gây ô nhiễm, suy thoái môi
trường thì không phảo bồi thường thiệt hại đối với môi trường và không phải
chịu các chi phí liên quan đến xác định thiệt hại và thực hiện thủ tục yêu cầu
bồi thường thiệt hại.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 18/01/2011. Các hành vi gây ô nhiễm, suy thoái môi trường dẫn đến thiệt
hại đối với môi trường xảy ra sau ngày Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có hiệu
lực mà chưa bồi thường thiệt hại thì việc xác định thiệt hại và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại được thực hiện theo quy định tại Nghị định này.
6.
Nhận thức về quyền con
người đối với môi trường cộng đồng quốc tế và vấn đề hợp tác quốc tế của VN
trong bảo về MT
Có thể nói nhận thức
quốc tế về các mối liên kết giữa QCN và môi trường đã mở rộng đáng kể từ khi,
BVMT trở thành mối quan tâm quốc gia và quốc tế. Khoảng hai thập kỷ sau khi QCN
xuất hiện trên trình nghị sự quốc tế, cộng đồng quốc tế đã thông qua một mảng
đáng kể công cụ pháp lý quốc tế, thành lập các cơ quan chuyên ngành toàn cầu và
cấp khu vực để xây dựng công cụ, kiểm soát và thúc đẩy việc thực hiện QCN đối
với môi trường.
Từ nghiên cứu của các
chuyên gia, cũng như từ thực tiễn có thể khái quát các bước chuyển của nhận
thức quốc tế về mối liên kết giữa QCN và môi trường như sau: 1) BVMT như là một
điều kiện tiên quyết để được hưởng các QCN; 2) Thực hiện QCN là yếu tố cần
thiết để đạt được BVMT; 3) Quyền được hưởng một môi trường an toàn, lành mạnh
và cân bằng sinh thái là một quyền độc lập trong QCN; 4) BVMT, đảm bảo QCN là
mục tiêu phát triển bền vững.
BVMT như là một điều
kiện tiên quyết để được hưởng các QCN; thực hiện QCN là yếu tố cần thiết để đạt
được BVMT.
Cách tiếp cân này đã
được thể hiện trong Hội nghị thượng đỉnh thế giới về Môi trường và phát triển
bền vững năm 1992 tại Rio de Janeiro, Brasil. Hội nghị tuyên bố rằng con người
“có quyền được sống một cuộc sống lành mạnh và sản xuất trong sự hòa hợp với
thiên nhiên” (Nguyên tắc 1) và quy định rằng các quốc gia nên hợp tác hiệu quả
để ngăn cản hoặc ngăn chặn việc di dời và chuyên giao cho các tiểu bang khác
các hoạt động gây ra các chất được cho là có hại cho sức khỏe của con người
(Nguyên tắc 14).
Tuyên bố Rio, 1992 coi
việc tôn trọng và đảm bảo QCN là quan trọng trong việc hoạch định chính sách
BVMT. Hiên nay ở châu Phi, châu Âu và châu Mỹ, các công ước nhân quyền khu vực
đều cung cấp các bảo đảm cụ thể để bảo vệ quyền sức khỏe môi trường; công nhận
tầm quan trọng của sự tham gia của cộng đồng liên quan tới các quyết định về
môi trường.
Cam kết về BVMT và
phát triển bền vững trên cấp độ quốc tế, Việt Nam đã phê chuẩn “Công ước khung
của LHQ về BĐKH” (UNFCC) năm 1994 và phê chuẩn Nghị định Kyoto ngày 17/8/2004
Bên cạnh đó còn nhiều
dự án với các nước cụ thể có thể kể ra đó là:
Chương trình Hợp
tác phát triển Việt Nam - Đan Mach trong lĩnh vực môi trường (DCE) được hỗ trợ
250 triệu DKK từ chính phủ Đan Mạch. Chương trình hợp tác này được xây dựng dựa
trên các hoạt động Đan Mạch đã và đang hỗ trợ cho lĩnh vực môi trường của Việt
Nam, hỗ trợ này đã cam kết hơn 330 triệu DKK từ năm 1997. Văn
kiện chương trình mô tả những nét chính của chương trình hợp tác trong
lĩnh vực môi trường được hai Chính phủ Việt Nam và Đan Mạch thông qua cho
giai đoạn từ giữa năm 2005 đến giữa năm 2010. Thoả
thuận giữa hai chính phủ Việt Nam và Đan Mạch về Hợp tác phát triển
trong lĩnh vực môi trường đã được ký kết ngày 17 tháng 12 năm 2004 tại Hà Nội[5].
Mục tiêu phát triển của chương trình: "
Hỗ trợ thực hiện Chiến lược quốc gia về Bảo vệ môi trường đảm bảo sinh kế bền
vững và cải thiện điều kiện sống cho người nghèo".
Chương trình DCE bao gồm 5 hợp
phần:
§ Kiểm soát ô nhiễm ở một số khu
vực đông dân nghèo (PCDA)
§ Phát triển bền vững và thân
thiện môi trường ở một số khu đô thị nghèo (SDU)
§ Sản xuất sạch hơn trong công
nghiệp (CPI)
§ Sinh kế bền vững trong và quanh
khu bảo tồn biển (LMPA)
§ Hỗ trợ xây dựng năng lực trong
quản lý và lập kế hoạch môi trường (CDS)
Văn phòng hỗ trợ
chương trình (PSO)
đóng vai trò hỗ trợ về mặt hành chính và quản lý đồng thời cung cấp kênh
trao đổi thông tin cho cả chương trình.
Việt Nam - Hàn Quốc: Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực môi trường (2)
Hội
nghị Bộ trưởng Môi trường Việt Nam – Hàn Quốc lần thứ 9 được tổ chức vào
dịp Hai nước đang chuẩn bị kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Hội nghị đã đánh giá tình hình hợp tác về môi trường giữa hai Bộ trong
thời gian 2011-2012 và đã thu được nhiều kết quả như: Cơ quan Hợp tác quốc tế
Hàn Quốc đã và đang phối hợp với các đơn vị trực thuộc Bộ TNMT xây dựng và
triển khai các dự án: (i) Thiết lập hệ thống chứng từ điện tử quản lý chất thải
nguy hại tại Việt Nam; (ii) Xây dựng báo cáo khả thi hệ thống xe buýt nhanh tại
thành phố Hồ Chí Minh; (iii) Dự án thành lập Trung tâm Nghiên cứu Đào tạo Việt
Nam - Hàn Quốc. Tổng cục Khí tượng Hàn Quốc và Trung tâm Khí tượng thủy văn
quốc gia Việt Nam đã ký kết Biên bản ghi
nhớ hợp tác trong lĩnh vực khí tượng thủy văn
năm 2009 và đến nay đã được triển khai đạt nhiều kết quả tốt. Bộ Môi trường Hàn Quốc đã
hỗ trợ Bộ Tài nguyên và Môi trường khảo sát tính khả thi về kỹ thuật, kinh tế,
tính pháp lý của Dự án cải thiện chất lượng nước sông Nhuệ-Đáy trong năm 2012[6].
Định hướng hợp tác trong thời gian tới, Hai Bộ sẽ hợp tác sửa đổi Luật Bảo vệ môi trường 2005, tạo
điều kiện giúp các đoàn của Bộ Tài nguyên và Môi trường sang Hàn Quốc khảo sát, học tập kinh nghiệm xây dựng và triển khai Luật
môi trường; hỗ trợ và tham gia các hội thảo trong quá trình sửa đổi Luật Bảo vệ
môi trường 2005; hợp tác xây dựng và thực hiện Chương
trình mục tiêu quốc gia về Khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn
2012-2015.
Đồng
thời, Hàn Quốc bày tỏ mong muốn tăng cường hợp tác về ứng phó với biến đổi khí hậu cũng như để giải quyết các vấn đề về môi
trường phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế nhanh chóng của Việt Nam
dựa trên kinh nghiệm của Hàn Quốc.
Hợp tác
quốc tế về môi trường giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong Hội nghị Bộ trưởng Môi
trường Việt Nam – Hàn Quốc cần được tiếp tục và phát
huy hơn nữa nhằm thực chất hóa các hoạt động cụ thể trong thời gian tới và thúc
đẩy hợp tác về tài nguyên và môi trường ngang tầm với quan hệ đối tác chiến
lược giữa hai Chính phủ.
Ngoài ra VN cũng đẩy mạnh việc hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực môi trường như : Hội nghị hợp tác khu vực sông Mê Kông-sông
Hằng, Tăng
cường Hợp tác Việt Nam-Nhật Bản trong bảo vệ môi trường, Việt Nam - Lào hợp tác đầu tư và bảo vệ môi trường…
III.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ÁP DỤNG NGUYÊN
TẮC ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI ĐƯỢC SỐNG TRONG MÔI TRƯỜNG TRONG LÀNH
1.1.
Môi
trường đô thị.
Nước thải chưa qua xử lý
đổ vào sông là tình trạng phổ biến ở các đô thị, nghiêm trọng nhất là ở Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh- Theo thống kê, Việt Nam có trên 800.000 cơ sở sản
xuất công nghiệp với gần 70 KCX-KCN tập trung. Đóng góp của công nghiệp vào GDP
là rất lớn; tuy nhiên chúng ta cũng phải chịu nhiều thiệt hại về môi trường do
lĩnh vực công nghiệp gây. Hiện nay khoảng 90% cơ sở sản xuất công nghiệp và
phần lớn các KCN chưa có trạm xử lý nước thải. Các ngành công nghiệp gây ô
nhiễm môi trường, nặng nhất là công nghiệp nhiệt điện, công nghiệp sản xuất xi
măng và vật liệu xây dựng, công nghiệp khai thác khoáng sản[7].
Hà Nội và TPHCM đã và
đang được xếp vào tốp 6 thành phố ô nhiễm bụi nhất thế giới[8]. Để cải thiện vị trí cũng như hình
ảnh của mình, hai thành phố này đã nỗ lực giảm thiểu ô nhiễm không khí như hỗ
trợ giá cho phương tiện công cộng, tăng chuyến xe công cộng đảm bảo phủ kín
tuyến giao thông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của người dân… nhưng
hiệu quả đạt được vẫn thấp. Đây cũng là thực trạng chung mà nhiều thành phố lớn
của nước ta đang gặp phải. Chính phủ cũng đã ban hành quy định về kiểm định
chất lượng khí thải của các phương tiện cá nhân nhằm giảm xe không đạt chuẩn,
xả thải nhiều gây ô nhiễm môi trường
Việt Nam có mạng lưới
sông ngòi dày đặc, chỉ riêng các tuyến có thể khai thác giao thông đường thủy
đã có chiều dài hàng ngàn km. Bên cạnh đó, sông rạch còn có tác dụng tiêu thoát
nước, điều hòa khí hậu và tạo cảnh quang đô thị. Tuy nhiên, nhiều năm trở lại
đây, tình trạng hủy hoại dòng sông vẫn xảy ra hàng ngày và một ngày trở nên
nghiêm trọng với hành động lấn chiếm, sang lấp, xả rác một cách tùy tiện. Với
hàng chục ngàn hộ dân sống bên cạnh kênh rạch tất yếu sẽ có một lượng rác thải
khổng lồ bị vứt xuống lòng sông. Hệ thống kênh rạch của thành phố mỗi ngày bị
đầu độc bởi hơn 40 tấn rác thải các loại và 70.000m3 nước thải công nghiệp chưa
qua xử lý (vài năm trước số liệu này là 200.000m3) . Với một thực trạng như vậy
thử hỏi làm sao những dòng kênh xanh không biến thành những dòng kênh bị
"ung thư". Những dòng kênh như Nhiêu Lộc-Thị Nghè, kênh Đôi-kênh Tẻ,
kênh Tàu Hủ, Tân Hóa-Lò Gốm bị ô nhiễm từ vài chục năm nay là chuyện đã đành
thì đến hiện nay ngay khu vực ngoại thành từ Bình Chánh, Hóc Môn đến Củ Chi...
những dòng kênh vốn phục vụ cho việc tưới tiêu trước đây nay cũng biến thành
những dòng kênh mà người dân đã gọi là kênh sủi bọt, kênh ngứa, kênh nín thở...
Ở Đồng bằng Sông Cửu Long, hệ thống sông rạch cũng bị ô nhiễm nghiêm trọng do
chất thải của nhà máy, khu công nghiệp trong khu công nghiệp trong khu vực.
Hiện nay, không khí từ
ven các dòng sông - rạch - kênh đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Bên cạnh đó không
khí ven đường cũng trở nên trầm trọng do chịu tác động bởi bụi và khí thải độc
hại được thải ra từ các phương tiện giao thông, các công trình xây dựng, các
công trình sản xuất - dịch vụ.
Ô nhiễm không khí và ô
nhiễm môi trường được xem là kẻ giết người thầm lặng. Theo thống kê của tổ chức
Y tế thế giới ( WHO) , hằng năm trên thế giới có khoảng 2 triệu trẻ em bị tử
vong do nhiễm khuẩn hô hấp cấp, 60% trường hợp có liên quan đến ô nhiễm không
khí. Tại bệnh viện Nhi đồng 2 (TP.HCM), PGS-TS
Võ Công Đồng - Phó Giám đốc bệnh viện cho biết: Trong số các trẻ mắc
chứng bệnh Ký sinh trùng, nhiễm trùng nhập viện ngày càng giảm thì bệnh lý hô
hấp ở trẻ lại một ngày tăng và chiếm 40 - 50% số bệnh nhi nhập viện điều trị
nội trú tại bệnh viện.
Ở TP.HCM cả 2 bãi chôn
rác của thành phố ( Bãi chôn lấp rác số 1 khu xử lý rác Phước Hiệp - Củ Chi và
Bãi rác Gò Cát - Quận Bình Tân ) đều đã
quá tải và gặp trục trặc về kỹ thuật. Dù vậy 2 bãi rác này vẫn phải “ gồng mình”
gánh vác một khối lương rác khổng lồ, gần 5.000 tấn/ngày. Mùi hôi và ô nhiễm
khu vực dân cư xung quanh các bãi rác là rất nghiêm trọng. Bài toán rác vẫn
chưa có lời giải thuyết phục.
“Thị trấn yên tĩnh” nay đã thành “câu chuyện
ngày xưa”. Tiếng ồn của các phương tiện giao thông vận tải, các công trình xây
dựng, các cơ sở sản xuất trong thành phố đã trở thành làn sống âm thanh ầm ĩ
suốt cả ngày, rất có hại đến sức khỏe của người dân, ảnh hưởng đến các bệnh
viện, trường học. Tệ hại nhất là ống bô xe bị móc ruột, xe xích lô máy…
Tình trạng ô nhiễm môi trường đã trở thành vấn đề
gây bức xúc ở nhiều nơi. Nếu như người dân đô thị chịu ô nhiễm với tình trạng
tồn ứ rác thải công nghiệp, ô nhiễm không khí do khói, bụi… thì người dân ở
vùng nông thôn đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường do rác thải
sinh hoạt, phân gia súc, gia cầm, ô nhiễm nguồn nước…
Kênh thoát nước Hà Nam
(Yên Hưng) là con kênh chia cắt hai xã Phong Hải, Phong Cốc. Lòng kênh chứa đầy
rác, ruồi nhặng bâu bám bốc mùi hôi thối đến ghê người. Theo những người dân
sống hai bên bờ kênh, lòng kênh trước đây vốn khá sạch, còn tắm, giặt được, thì
giờ nó không khác gì cái rãnh thoát nước thải… Theo ghi nhận, không chỉ có rác,
mà ngay cả xác súc vật chết, vật liệu xây dựng cũng xuất hiện trên con kênh[9].
Thêm nữa, khi do nhu cầu
phát triển kinh tế, người dân đang mở rộng quy mô chuồng trại nhưng vẫn áp dụng
phương thức chăn nuôi theo kiểu “chuồng lợn cạnh nhà, chuồng gà cạnh bếp”, phân
và nước thải gia súc chưa qua xử lý vô tư thải ra kênh. Dòng nước đặc quánh và
đen sì, bên trên nổi một lớp rác gồm túi ni lông, rác sinh hoạt... Nếu gặp trời
mưa, nước thải lênh láng có lúc tràn cả lên mặt đường làng, trời nắng thì bốc
mùi hôi thối nồng nặc. Đây chính là môi trường thuận lợi để ruồi, muỗi, các ký
sinh trùng gây bệnh phát sinh. Thứ nước thải đó còn ngấm vào nguồn nước ngầm,
do vậy, nguy cơ phát sinh các loại dịch bệnh là rất cao.
Hiện nay có khoảng 76% dân số nước ta đang sinh
sống ở nông thôn là nơi cơ sở hạ tầng còn lạc hậu. Phần lớn các chất thải của
con người và gia súc ở đây không được xử lý, thấm xuống đất hoặc rửa trôi gây ô
nhiễm nguồn nước. Nhiều nơi do nuôi trồng thủy sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không
tuân theo quy trình kỹ thuật đã tác động tiêu cực tới môi trường nước và không
khí. Lượng nước thải của các cơ sở chăn nuôi tập trung, chế biến thủy sản đông
lạnh cũng rất lớn, từ vài chục ngàn đến hàng trăm ngàn mét khối trong một năm.
Môi trường ở nông thôn cũng bị ô nhiễm nghiêm trọng do việc sử dụng không đúng
quy cách và không hợp lý các hóa chất nông nghiệp; thiếu các phương tiện vệ
sinh và cơ sở hạ tầng phục vụ sinh hoạt nên số hộ ở nông thôn được dùng nước
sạch hợp vệ sinh mới chỉ đạt khoảng 40% và chỉ có gần 30% số hộ có công trình
vệ sinh hợp tiêu chuẩn.
Bên cạnh các
làng nghề truyền thống, gần đây, ở đồng bằng sông Hồng đã xuất hiện thêm nhiều
làng nghề chăn nuôi và giết mổ gia súc, mỗi ngày làng nghề mổ trung bình từ 80
đến 100 con trâu bò, từ 250 đến 300 con lợn, ngày cao điểm lên đến hàng ngàn
con. Mỗi gia đình làm nghề chăn nuôi, giết mổ gia súc thải ra từ 3-4 m3 nước
thải, 80-100 kg phân, và từ 15-20 kg xương. Ở một số làng nghề làm bún, bánh
phở, sản phẩm phụ được người dân dùng để chăn nuôi lợn, gà, cá và làm phân bón
ruộng. Chất thải rắn như bã rượu, phân lợn, trâu bò, xỉ than; chất thải lỏng
như nước rửa nguyên liệu, chuồng trại khoảng 4.000 đến 5.000 m3/ngày đêm. Tất
cả các chất thải đều chưa qua xử lý vẫn thải trực tiếp ra ao hồ và ruộng lúa
quanh làng. Vì thế, số lượng người mắc các bệnh: đường ruột, sốt xuất huyết,
đau mắt, phụ khoa, viêm đường hô hấp ở trẻ em có chiều hướng gia tăng và xảy ra
thường xuyên hơn. Nhiều nơi, người dân cũng đã ý thức được tác hại của ô nhiễm
môi trường, nhưng để đầu tư cho một hệ thống xử lý môi trường lại đòi hỏi phải
có kinh phí lớn nên hầu như các hộ nông dân không đủ khả năng. Hơn nữa, do tính
hấp dẫn về kinh tế nên các hộ không ngừng việc chăn nuôi. Vì vậy, tình trạng ô
nhiễm môi trường ở khu vực chăn nuôi tập trung đang trở thành một vấn đề bức
xúc ở nông thôn.
1.3.
Ví
dụ điển hình cho thấy sự tác động đến quyền được sống trong môi trường trong
lành của con người tại Việt Nam.
Vedan xả chất thải ra sông Thị Vải.
Vụ
Vedan xả chất thải ra sông Thị Vải là vụ gây ô nhiễm môi trường được Cục Cảnh sát môi trường - Bộ Công an Việt Nam phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt
Nam phát hiện ngày 13 tháng 9 năm 2008 tại Công ty Vedan Việt Nam.
Ngày 19 tháng 9, Bộ Tài
nguyên và Môi trường công bố kết quả điều tra 10 sai phạm của Vedan, bao gồm:
Xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 10 lần trở lên đối với nhà máy sản
xuất tinh bột biến tính của công ty; xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ
10 lần trở lên đối với các nhà máy sản xuất bột ngọt và lysin của công ty; xả
nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 10 lần trở lên đối với các nhà máy khác
của công ty; nộp không đầy đủ các số liệu điều tra, khảo sát, quan trắc và các
tài liệu liên quan khác cho cơ quan lưu trữ dữ liệu thông tin về môi trường
theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; không đăng ký cam kết bảo vệ
môi trường với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đối với trại chăn nuôi
heo; không lập báo cáo đánh giá tác động môi trường mà đã xây dựng và đưa công
trình vào hoạt động đối với dự án đầu tư nâng công suất phân xưởng sản xuất
xút- axit từ 3.116 tấn/tháng lên 6.600 tấn/tháng; không lập báo cáo đánh giá
tác động môi trường mà đã xây dựng và đưa công trình vào hoạt động đối với dự
án đầu tư nâng công suất các nhà máy bột ngọt từ 5.000 tấn/tháng lên 15.000
tấn/tháng, tinh bột biến tính từ 2.000 tấn/tháng lên 4.000 tấn/tháng, lysin từ
1.200 tấn/tháng lên 1.400 tấn/ tháng, bột gia vị cao cấp 20 tấn/tháng, PGA 700
tấn/năm, phân Vedagro 70.000 tấn/năm (rắn), 280.000 tấn/năm (lỏng); thải mùi
hôi thối, mùi khó chịu trực tiếp vào môi trường không qua thiết bị hạn chế môi
trường; quản lý chất thải nguy hại không đúng quy định về bảo vệ môi trường;
công ty xả nước thải vào nguồn nước không đúng vị trí quy định trong giấy phép[10].
Hậu quả là trước đây tại
ấp 1, xã Phước Thái, huyện Long Thành - gần Vedan, có một cánh đồng với diện
tích trên 10 ha sản xuất 3 vụ lúa/năm nhưng do ô nhiễm bởi những chất thải độc
hại chưa qua xử lý của Vedan, nên phải bỏ hoang từ hàng chục năm qua. Hơn
200 hộ dân với hơn 1.000 nhân khẩu sinh sống bằng nghề trồng lúa và nghề chài
lưới phải tự tìm kiếm nghề khác sinh sống.
Ngoài ra, còn hơn 40 hộ
dân tại khu vực này làm nghề nuôi trồng thủy sản với diện tích mặt nước 70 ha
cũng bị ảnh hưởng nặng nề bởi ô nhiễm, tôm cá không thể sống nổi, nhiều ao hồ
phải bỏ không từ nhiều năm qua… Nhưng đó chỉ mới thiệt hại về vật chất có thể
đo đếm được, còn thiệt hại về sức khỏe con người thì không thể thống kê được.
Theo thông tin từ Cục
Cảnh sát môi trường (Bộ Công an), đến ngày 23-9-2008, đã có trên 700 đơn thư
của người dân sinh sống 2 bên bờ sông Thị Vải, gửi đến đoàn kiểm tra liên ngành
và Cục Cảnh sát môi trường đang làm nhiệm vụ tại Vedan, tố giác hành vi gian
dối của đơn vị này. Hầu hết đơn thư của người dân đều bày tỏ mong muốn Vedan bị
xử lý nghiêm khắc và người dân được bồi thường đầy đủ những thiệt hại mà Vedan
đã gây ra[11].
Với những vi phạm và thiệt hại nêu trên do Công ty Vedan gây ra, dẫn đến
cuộc sống của những người dân trong khu vực ấy không được đảm bảo tốt, môi
trường bị ô nhiễm quá nặng nề trong hàng năm liền, những chất độc thấm sâu vào
lòng đất, có đất nông nghiệp, nguồn nước, gây nguy hại đến sức khỏe của con
người, hành vi đó đã tước đi quyền được sống trong môi trường trong lành của
con người.
Nhà máy điện Sơn La
Công trình Thuỷ điện Sơn La nằm trên thượng lưu hồ Hoà Bình, trong vùng
có động đất thường xuyên và mạnh nhất Việt Nam. Hồ chứa nước lớn, cột nước cao,
lưu lượng lũ lớn. Hồ Sơn La và hồ Hoà Bình đều nằm trên thượng lưu đồng bằng
Bắc Bộ, là nơi có nhiều trung tâm đô thị, công nghiệp, dân cư và thủ đô Hà Nội.
Đây là điểm khác biệt so với các đập nước lớn trên thế giới. Nếu xuất hiện
những chấn động dẫn tới hiện tượng vỡ đập dây chuyền, thì sẽ gây thảm hoạ khủng
khiếp. Với những tính chất trên, mức độ an toàn phải đặt ở mức "siêu
cấp". Hồ chứa nước Thủy điện Sơn La sẽ làm ngập một diện tích đất lớn (Sơn
La cao khoảng 40.600 ha, Sơn La thấp khoảng 18.650 ha), kéo theo các tổn thất
về rừng, đa dạng sinh học, khoáng sản, di sản văn hoá, lịch sử và hạ tầng cơ sở
hiện có. Diện tích rừng bị ngập khoảng 2.500 - 3.100 ha, chiếm khoảng 7,02 -
11,2 % tổng diện tích đất ngập. Hệ thực vật ở vùng có mức đa dạng sinh học
trung bình (11 loài/50ha). Hệ động vật có 44 loài được liệt vào loại quý hiếm,
có giá trị kinh tế, nhưng số lượng cá thể còn rất ít. Do bị ngập, địa bàn cư
trú của một số động vật hoang dã sẽ bị thu hẹp hoặc mất hẳn, thành phần thuỷ
sinh có xu hướng giảm về số loài. Việc tái định cư có thể tạo điều kiện cho
phát triển lâm nghiệp vùng ven hồ và có thể thu hút các giống loài quay trở
lại, nhưng những tác động tiêu cực tới đa dạng sinh học là rất lớn[12].
Sự hình thành hồ chứa sẽ ảnh hưởng đến số lượng lớn dân cư, tác động tới
quy hoạch lãnh thổ, làm nảy sinh những vấn đề môi trường đô thị như: cấp nước,
vệ sinh, ô nhiễm không khí, đất nước, rác thải, nhà ở và các dịch vụ khác...
Hàng loạt vấn đề môi trường nghiêm trọng nảy sinh trong quá trình chuẩn
bị và xây dựng công trình như: ô nhiễm, suy thoái môi trường không khí do nồng
độ bụi tăng vượt tiêu chuẩn cho phép từ 8-300 lần, tải lượng khí độc (CO, NO,
SO2,...) lên tới vài nghìn mg/m3/ngày đêm. Lượng chất rắn lơ lửng trong nước
lớn, ô nhiễm dầu mỡ, nước thải sản xuất từ các xưởng vượt vài chục lần so với
chuẩn cho phép.
Do tác động điều hoà dòng chảy giữa mùa lũ và mùa cạn, chế độ thuỷ văn và
thuỷ lực của dòng sông sẽ thay đổi rất khó xác định, lưu lượng điều tiết sau
khi đỉnh lũ qua đi sẽ làm cho mực nước sông duy trì ở mức cao lâu hơn, gây tác
hại đối với đê sông. Các bãi ven sông cũng ngập lâu hơn, ảnh hưởng tới sản xuất
và sinh hoạt của cụm cư dân ngoài đê...
Trong mùa cạn, lượng nước tăng lên hơn hai lần so với hiện nay, làm xói
các bìa và lòng sông, mất các diện tích canh tác của các bãi hai bờ sông...
Thực tế cho thấy, dùng hồ nước để cắt lũ, nhưng khi vượt quá một giới hạn nào
đó sẽ xảy ra nghịch lý: cắt được lũ càng lớn, hồ có dung tích lớn sẽ tạo ra một
cơn lũ càng to hơn nữa. Và lúc đó, mọi việc sẽ cực kỳ nguy cấp cho con người.
2. Kết quả của cơ chế
thực thi bảo đảm thực thi nguyên tắc quyền con người được sống trong môi trường
trong lành.
Công tác thanh tra,
kiểm tra quản lý nhà nước về BVMT
Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết, trong năm
2010, Bộ đã thành lập 6 đoàn thanh tra công tác bảo vệ môi trường (BVMT) đối
với 260 cơ sở sản xuất, khu công nghiệp (KCN) trên địa bàn 46 tỉnh, thành phố
trực thuộc TƯ.
Qua thanh tra, các đoàn đã lập 113 biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BVMT và chuyển cho UBND các tỉnh, thành phố xử phạt theo quy định. Tính đến
nay, các địa phương đã xử phạt nhiều trường hợp với tổng số tiền khoảng 5,1 tỷ
đồng. Theo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên đa số cơ sở
sản xuất, KCN được thanh, kiểm tra chưa thực hiện đúng các nội dung trong báo
cáo tác động môi trường (chiếm 74,47%)[13].
Năm 2010, Bộ
Tài nguyên và Môi trường cùng các đơn vị cơ sở trực thuộc ở các tỉnh, thành phố
trong cả nước đã tổ chức hơn 1.000 đợt thanh tra, kiểm tra, chủ yếu trên các
lĩnh vực liên quan đến đất đai, khoáng sản, tài nguyên nước và môi trường. Qua
đó đã lập biên bản hàng nghìn trường hợp vi phạm, xử phạt hơn 40 tỷ đồng.
Cũng trong
năm 2010, lãnh đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường và các sở trực thuộc đã tiếp nhận
gần 12.000 đơn, thư khiếu nại, tố cáo (90% trong số đó liên quan đến tranh chấp
đất đai). Tuy nhiên, chỉ có khoảng 30% số đơn, thư được giải quyết. Nguyên nhân
chủ yếu do đơn thư không thuộc thẩm quyền xử lý của các cấp ngành Tài nguyên và
Môi trường. Trong lĩnh vực thanh tra, kiểm tra các khu, cụm công nghiệp, nơi
được coi là nguồn ô nhiễm môi trường chính hiện nay, cả nước hiện có tới
285/400 khu, cụm công nghiệp vi phạm các quy định về môi trường. Bộ Tài nguyên
và Môi trường và các đơn vị cơ sở trực thuộc đã lập biên bản vi phạm, xử phạt
gần 9 tỷ đồng[14].
Bộ Tài nguyên và Môi
trường (TN&MT) cho biết, 6 tháng đầu năm 2012, ngành TN &MT đã tiến
hành gần 500 cuộc thanh tra, kiểm tra đối với gần 2.500 tổ chức, cá nhân thuộc
lĩnh vực ngành quản lý. Qua thanh tra, kiểm tra, các địa phương đã ra quyết
định xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
với tổng số tiền hơn 5 tỷ đồng, kiến nghị truy thu phí bảo vệ môi trường gần 2,
35 tỷ đồng. Một số cuộc thanh tra về môi trường đã tạo được tính răn đe trong
việc chấp hành các quy định của pháp luật về môi trường. Trong 6 tháng cuối năm
nay, Bộ TN &MT tiếp tục thanh tra trên diện rộng, tập trung vào các lĩnh
vực như việc chấp hành pháp luật về môi trường, đất đai, tài nguyên nước; vấn đề
khí tượng thủy văn đối với các dự án thủy điện[15].
Tổ chức bộ máy quản lý môi
trường ở các ngành, địa phương
Từ năm 2007 đến nay, tổ chức
bộ máy quản lý nhà nước về BVMT từ tỉnh đến xã của các địa phương đã được kiện
toàn. Ở cấp tỉnh có Sở TN&MT; ở cấp huyện đã thành lập Phòng TN&MT; ở
cấp xã đã có cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm về môi trường.
Về công tác quy hoạch
Các địa phương đều đã có quy
hoạch khu đô thị, khu kinh tế, KCN. Để công tác đảm
bảo môi trường đô thị (MTĐT) được tốt, Bộ Tài nguyên và môi trường phối hợp với
các bộ ngành liên quan đã chủ động triển khai và có các giải pháp phù hợp với
tình hình thực tiễn của địa phương, cùng với UBND các cấp xây dựng kế hoạch cụ thể và chỉ đạo triển
khai đồng bộ trên các lĩnh vực: Quy hoạch xây dựng, đất đai; quy hoạch phát
triển bảo vệ rừng; bố trí đủ vốn để đầu tư hạ tầng kỹ thuật về MTĐT,Quy hoạch
xây dựng đô thị, giao thông, cấp thoát nước, khu CN-TTCN, khu chôn lấp xử lý
rác thải, nước thải, nghĩa trang, nghĩa địa; quy hoạch bảo vệ và phát triển các
loại rừng (đặc dụng, trồng, phòng hộ, ngập mặn); Đồng thời tập trung đầu tư hạ
tầng kỹ thuật phục vụ tốt công tác đảm bảo MTĐT, như hệ thống đường giao thông,
vỉa hè, cây xanh đường phố, hệ thống thoát nước.
Công tác thẩm định và phê
duyệt Báo cáo đánh giá tác động môi trường
Sau khi Luật BVMT 2005 và
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật được ban hành, việc lập và thẩm định báo
cáo môi trường chiến lược (ĐMC), Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và
Cam kết BVMT đối với các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, dự án đầu tư
có quy mô khác nhau đã được quan tâm hơn.
Hoạt động nghiên cứu khoa
học, ứng dụng công nghệ BVMT
Cho đến nay đã hình thành
được một số cơ sở sản xuất, chế tạo các thiết bị BVMT, xử lý chất thải như: hệ
thống XLNT, thiết bị xử lý chất thải rắn, chất thải y tế, tái chế chất thải;
thiết bị quan trắc môi trường.
Theo bà Nguyễn Thị Hiền
Lương, Phó Giám đốc Sở Giao thông vận tải TP, sau hơn 10 năm chuẩn bị và thực
hiện, đến nay tất cả các gói thầu thi công của dự án Vệ sinh Môi trường, lưu
vực Nhiêu Lộc-Thị Nghè đã hoàn tất. Theo đó, có hơn 9 km tuyến cống bao với
đường kính 2,5-3 m, 36 giếng chính và thiết bị tách dòng để thu nước thải sinh
hoạt; một trạm bơm với công suất 64.000 m3/giờ cùng 58 km các loại
cống hộp, cống tròn để thoát nước mưa, chống ngập cho lưu vực rộng trên 33 km
thuộc bảy quận nội thành nói trên. Trong giai đoạn 1, dự án có tổng vốn đầu tư
khoảng 8.600 tỉ đồng, trong đó vốn ODA của Ngân hàng Thế giới (WB) trên 5.250
tỉ đồng. Ngoài ra, TP.HCM còn đầu tư 400 tỉ đồng cải tạo đường Hoàng Sa, Trường
Sa nằm ven kênh; góp phần cải thiện cảnh quan đô thị dọc bờ kênh và nâng cao
năng lực giao thông cho khu vực[16].
Về công tác xã hội hóa,
tuyên truyền hoạt động BVMT
Các hoạt động tuyên truyền
đã thu hút được nhiều tổ chức xã hội, doanh nghiệp tham gia; đã hình thành được
các tổ thu gom rác thải; phát triển các mô hình tự quản về BVMT trong nhân dân.
Một số địa phương đang tiến hành sắp xếp, cổ phần hóa các công ty môi trường đô
thị.
Tại các địa phương hình thành các tổ tự quản, các mô hình
điểm bước đầu mang lại hiệu quả cao, cần được nghiên cứu và áp dụng trên quy mô
toàn quốc. Điển hình như “Mô hình điểm”
về bảo vệ môi trường ở xã Đức Mạnh huyện Đăk Mil, tỉnh Đăk Nông, Tổ tự quản bảo vệ môi trường TX.Thuận An, tỉnh Bình Dương , mô hình điểm
"khu dân cư tự quản bảo vệ môi trường" tại khu dân cư số 4 phường Vân
Phú, thành phố Việt Trì ...
Nguồn kinh phí bổ sung
hằng năm cho sự nghiệp môi trường gồm phí đối với chất thải rắn, nước thải và
khoáng sản và phần huy động ngoài ngân sách của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam.
Đáng tiếc rằng, cả hai nguồn này đều ít ỏi. Thực tế cho thấy, đối với chất thải
rắn, mức thu phí chỉ đủ cho thu gom, vận chuyển, không thể chi cho xử lý với tỷ
lệ thu chưa cao, chỉ đạt khoảng 70 - 80%. Riêng phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp tỷ lệ thu mới
chỉ đạt 20 - 30%, nên mặc dù phần lớn khoản phí này được bổ sung vào ngân sách
địa phương (80%), nhưng cũng không thấm tháp gì. Việc thu phí nước thải sinh hoạt
là thuận lợi nhất vì được thu cùng với sử dụng nước sạch, nhưng mức thu chỉ
bằng 10% giá nước sạch là quá thấp. Theo đánh giá của Bộ TN&MT, khoản kinh
phí thu được từ những nguồn này chỉ bằng
1/10 tổng kinh phí Nhà nước phải chi cho các dịch vụ thu gom và xử lý chất
thải.
Đối với các hoạt động khoáng sản,
kinh phí từ nguồn ký Quỹ Cải tạo phục hồi môi trường triển khai theo Quyết định
71/2008. Sau 3 năm triển khai Quyết định này, Bộ TN&MT đã phê duyệt 54 dự
án với tổng số tiền ký quỹ trên 650 tỷ đồng; UBND các tỉnh, thành phố phê duyệt
1.753 dự án với tổng số tiền ký quỹ gần 880 tỷ đồng. Tuy nhiên việc buộc các
đơn vị khai thác khoáng sản trước khi có Quyết định 71 lập dự án cải tạo phục
hồi môi trường bổ sung, được thẩm định trước ngày 31/12/2008 là không khả thi bởi đến ngày 15/2/2010, Thông tư 34/2009
hướng dẫn công tác thẩm định mới có hiệu lực[17].
Cũng theo Quyết định 71,
việc ký Quỹ Cải tạo, Phục hồi môi trường được thực hiện tại các Quỹ Bảo vệ môi
trường. Nhưng cho đến nay, mới chỉ có 19 địa phương trong cả nước thành lập quỹ
này. Vì thế, ngay cả đơn vị ký quỹ rồi cũng không biết nộp tiền vào đâu. Đến
hết năm 2009, cả nước có khoảng 389 Giấy phép khai thác khoáng sản do Bộ
TN&MT, Bộ Công Thương cấp và 3.882 Giấy phép do UBND các địa phương cấp,
nhưng chỉ có 86 dự án ký quỹ tại Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam.
Ngân sách đầu tư cho bảo
vệ môi trường nước còn rất thấp (một số nước ASEAN đã đầu tư ngân sách cho bảo
vệ môi trường là 1% GDP, còn ở Việt Nam mới chỉ đạt 0,1%). Các chương trình
giáo dục cộng đồng về môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng còn quá
ít. Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường nước còn thiếu về số lượng, yếu về chất
lượng (Hiện nay ở Việt Nam trung bình có khoảng 3 cán bộ quản lý môi trường/1
triệu dân, trong khi đó ở một số nước ASEAN trung bình là 70 người/1 triệu dân)...
Theo Thứ
trưởng Bộ TN&MT Bùi Cách Tuyến, kinh phí cho bảo vệ môi trường ở các khu
kinh tế cao nhất là 618 triệu đồng (Hà Tĩnh, năm 2009). Có nơi như khu kinh tế
Vân Phong (Khánh Hoà) lần lượt các năm 2009 và 2010 chỉ "rót" 10 và
30 triệu đồng. Nhiều tỉnh còn không bố trí ngân sách[18].
Từ năm 2006
đến nay, chi thường xuyên cho sự nghiệp bảo về môi trường từ nguồn ngân sách
nhà nước đã duy trì ở mức không dưới 1% tổng chi ngân sách, mức chi hiện tại
còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, trong bối cảnh các vấn đề ô nhiễm và
suy thoái môi trường ngày một gia tăng. Do đó, việc tăng nguồn kinh phí và sử
dụng hiệu quả hơn nguồn kinh phí này là những yêu cầu cấp thiết trong công tác
bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay.
Qua giám sát cho thấy, nhiều địa phương
chưa phân bổ đủ và việc sử dụng nguồn kinh phí còn dàn trải, kém hiệu quả; có
một số địa phương còn sử dụng kinh phí này vào mục đích khác. Việc phân bổ,
thực hiện nguồn chi ở nhiều địa phương chưa có sự tham gia của cơ quan chuyên
môn (Sở TN&MT); chưa có sự giám sát chặt chẽ của HĐND các cấp. Cơ chế sử
dụng các nguồn thu từ thuế, phí BVMT, tiền phạt, nguồn tài trợ ODA, tài trợ phi
chính phủ cho BVMT chưa rõ ràng; thiếu sự điều hòa, phối hợp. Tổng kinh phí thu
được từ thuế, phí BVMT chưa đủ để đầu tư trở lại cho các công trình xử lý môi
trường.
2.2.3.
Hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ
BVMT
Quy mô sản xuất các
loại thiết bị khoa
học còn nhỏ lẻ và chủ yếu là gia công thiết bị; kiểm định
chất lượng công nghệ chưa được thực hiện theo tiêu chuẩn quốc gia. Công tác đầu
tư, tổ chức nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ BVMT chưa đáp ứng yêu cầu
xây dựng ngành công nghiệp môi trường như quy định tại Điều 108 và Điều 109 của
Luật BVMT 2005. Các cơ quan Nhà nước cần ban hành và áp dụng các biện pháp, cơ
chế ưu đãi cụ thể đối với các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ quan
trắc, phân tích và xử lý ô nhiễm để từng bước hình thành ngành công nghiệp môi
trường.
Bên
cạnh đó công tác hợp tác quốc tế cần được chú trọng, điển hình: Nhận lời mời của Công ty công nghệ môi trường TESCO
- Nhật Bản và Quỹ Nghiên cứu giảm thiểu, tái tạo, tái sử dụng và quản lý chất
thải Nhật Bản (JWRF), Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam đã tổ chức Đoàn công tác
sang thăm và làm việc tại Nhật Bản từ ngày 07/9 đến ngày 13/9/2012.
2.2.4. Cơ chế quản lý của chúng ta còn quá yếu kém, thụ động, thiếu tính
chặt chẻ.
Đáng chú ý là sự bất cập
trong hoạt động quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính
quyền, cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ
môi trường nước chưa sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường là loại
ô nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống
con người cũng như sự phát triển bền vững của đất nước. Các quy định về quản lý
và bảo vệ môi trường còn thiếu (chẳng hạn như chưa có các quy định và quy trình
kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ nguồn nước). Cơ chế phân công
và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa phương chưa đồng bộ, còn chồng
chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng. Chưa có chiến lược, quy hoạch khai
thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên. Chưa có các quy định hợp lý trong việc đóng
góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường , gây nên tình trạng thiếu hụt
tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước.
Trên thực tế, Luật Bảo vệ
môi trường cho đến nay đã rất mạnh mẽ và chặt chẽ. Những doanh nghiệp vi phạm
có thể phải đối mặt với nhiều hình thức xử lý nghiêm khắc như phạt tiền nặng,
đóng cửa… Thế nhưng những yếu kém về năng lực quản lý, sự thiếu hụt cán bộ
chuyên môn vẫn tạo kẽ hở để nhiều doanh nghiệp tiếp tục vi phạm môi trường.
Riêng về xu hướng tiêu dùng, tại nhiều nước châu Âu và nước phát triển, người
dân rất có ý thức trong việc chọn tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp xanh hoặc
sản phẩm xanh. Còn tại nước ta, xu hướng này đã và đang được định hình nhưng
chưa thực sự phát triển mạnh mẽ. Do đó, việc khuyến khích người dân, doanh
nghiệp tự nâng cao nhận thức của mình là việc làm cấp bách và cần thiết để đảm
bảo mục tiêu phát triển nhanh và bền vững mà đại hội Đảng đưa ra.
Định hướng BVMT trong giai đoạn 2011-2015, Bộ TN&MT sẽ đề xuất sửa
đổi, bổ sung Luật BVMT năm 2005, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước, tăng cường
các hoạt động, tạo hành lang pháp lý đầy đủ để lực lượng thanh tra chuyên ngành
có thể chủ động, linh hoạt trong hoạt động của mình. Xây dựng và thực hiện
Chương trình Mục tiêu quốc gia về khắc phục suy thoái và cải thiện môi trường,
trong đó sẽ tập trung nguồn lực để khắc phục các “điểm nóng” và các vấn đề bức
xúc về ô nhiễm môi trường
Tình trạng vi phạm về môi trường còn phổ biến, nhất là trong các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh..., việc lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường, cam kết BVMT còn mang tính hình thức; không thực hiện đầy đủ chế độ báo
cáo cũng như các cam kết BVMT đã phê duyệt.
Hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật BVMT và các luật
có liên quan đến lĩnh vực BVMT còn thiếu và chưa rõ ràng, cụ thể.
Ví dụ: Bộ luật Hình sự quy
định xử lý hình sự đối với cá nhân nhưng thực tế ở Việt Nam thì nhiều vụ việc
gây ô nhiễm môi trường lại do tổ chức, do đó gây khó khăn trong quá trình xử lý
vi phạm. Luật BVMT 2005 chưa quy định rõ ràng giữa quản lý nhà nước về BVMT với
quản lý nhà nước về khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên
nhiên như rừng, nước, khoáng sản, dầu khí, thủy sản... Nhiều trường hợp còn xảy
ra sự chồng chéo chức năng, thẩm quyền giữa Bộ TN&MT với các Bộ, ngành quản
lý các thành phần khác có hoạt động quản lý liên quan đến môi trường.
Thời gian gần đây hệ thống văn bản quy phạm pháp luật mặc dù
đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa rõ ràng, chế
tài chưa đủ mạnh để răn đe, còn nhiều lỗ hổng để các đối tượng “lách luật”.
Hệ thống pháp luật còn nhiều thiếu sót nên việc thực thi pháp
luật về môi trường chưa nghiêm.
Ngoài những thành tích đã đạt được, trong công tác phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường còn nhiều khó khăn. Do phương
thức, thủ đoạn của loại tội phạm này ngày một tinh vi hơn, có sự đối phó với cơ
quan chức năng, đòi hỏi lực lượng công an phải áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp
nghiệp vụ, huy động lực lượng và phương tiện, tổ chức theo dõi thời gian dài.
Một khó khăn khác là vi phạm có yếu tố nước ngoài. Trong một số vụ việc khi xử
lý, cảnh sát môi trường phải cân nhắc vì yếu tố ngoại giao, giải quyết bài toán
“phát triển kinh tế - bảo vệ môi trường - công ăn việc làm cho người lao động”.
Việc xử lý vi phạm pháp luật về môi trường hiện nay chưa có
sự đồng đều, thống nhất và chưa thực sự nghiêm minh. Nguyên nhân là do quan
điểm xử lý giữa các địa phương, một số Bộ, ngành chưa thống nhất. Nhiều nơi do
ưu tiên phát triển kinh tế nên kêu gọi đầu tư dàn trải, cấp phép kinh doanh ồ
ạt, không quan tâm đế thẩm định, đánh giá ảnh hưởng của các dự án đối với môi
trường, nhất là các dự án thuộc lĩnh vực trọng điểm hoặc khi xử lý đối với
doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước.
Tội phạm môi
trường thường được coi là “không nghiêm trọng” và ít được đưa vào danh sách ưu
tiên. Những loại tội phạm như thế này thường ít bị theo dõi chặt chẽ từ phía
chính phủ và các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, trong thực tế, đây lại là các nhân
tố ảnh hưởng rất lớn đến toàn xã hội. Ví dụ như việc khai thác gỗ trái phép
không chỉ làm mất đi sinh kế của các cộng đồng dân cư sống dựa vào rừng, mà còn
gây ra các vấn đề về hệ sinh thái như lũ lụt và biến đổi khí hậu. Việc buôn lậu
các chất khí ODS như chất làm lạnh Chloroflorocarbon (CFCs) góp phần làm mỏng
tầng ozone, gây ra các vấn đề về sức khoẻ như bệnh ung thư da và bệnh đục thuỷ
tinh thể[19].
Công tác lập quy hoạch
đô thị chưa được chú trọng thích đáng
Công tác quy hoạch khu công nghiệp (KCN), khu đô thị (KĐT) còn nhiều bất
cập. Nhiều KCN được quy hoạch sát khu đô thị, các dòng sông, trục giao thông và
các khu vực nhạy cảm về môi trường; quy hoạch chưa có đủ cơ sở khoa học, chưa
tính đến các yếu tố tự nhiên và xã hội nên tính khả thi thấp. Các địa phương
đều đã có quy hoạch khu đô thị, khu kinh tế, KCN nhưng chưa đủ nguồn lực thực
hiện quy hoạch, nhất là việc huy động vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các
KCN, KĐT và công trình thu gom xử lý nước thải, rác thải.
Cơ sở hạ tầng cấp thoát nước, thu gom là xử lý nước thải,
chất thải của hầu hết các đô thị không đáp ứng yêu cầu BVMT. Nước thải sinh
hoạt và nước mưa cùng thoát chung vào một hệ thống. Trong số các KCN hiện nay,
có 74 KCN đã đầu tư và đưa vào hoạt động các nhà máy xử lý nước thải tập
trung(chiếm 43% số KCN đã vận hành) và 22 KCN đang xây dựng công trình xử lý
nước thải. Còn lại 75 KCN đang hoạt động chưa có công trình xử lý nước thải.
Một số KCN có xây dựng hệ thống xử lý nước thải nhưng hầu như
không vận hành, ở nhiều nơi có vận hành nhưng nước thải không đạt tiêu chuẩn
cho phép và hoạt động mang tính chất đối phó khi có đoàn kiểm tra, giám sát
đến.
Tham nhũng ngân sách
Tham nhũng là
một hệ quả tất yếu của nền kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế
- xã
hội lỏng lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực, hiện
tượng tham nhũng và các tệ nạn có điều kiện phát triển và tại đó một phần quyền
lực chính trị được biến thành quyền lực kinh tế.
Tham nhũng làm chậm sự phát triển
kinh tế-xã hội, làm giảm lòng tin của công dân vào nhà nước, đến chừng mực nào
đó nó gây mất ổn định chính trị, kinh tế - xã hội. Các đối tượng có hành vi
tham nhũng trong lĩnh vực môi trường thường bòn rút nguồn tài chính dành cho
cải tạo, bảo vệ môi trường, làm cho hoạt động bảo vệ môi trường, cũng như những
đường lối, chính sách, ưu tiên mà Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới không được
đảm bảo. Đây là một vấn nạn mà chúng ta cũng nên dành sự quan tâm đặc biệt, bởi
mỗi khi có tham nhũng thì số tiền dành cho hoạt động bảo vệ môi trường bị thâm
hụt nghiêm trọng, mất lòng tin ở người dân.
3.
Đánh
giá chung về việc áp dụng nguyên tắc quyền con người được sống trong môi trường
trong lành tại Việt Nam.
Chất lượng cuộc sống hiện
nay của chúng ta không được bảo đảm vì chất lượng môi trường ngày càng xuống
cấp trầm trọng, quyền sống của con người đang bị đe dọa bởi tình trạng ô nhiễm,
suy thoái môi trường nên quyền được sống trong một môi trường trong lành đang
bị xâm hại mà nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường chủ yếu là hoạt
động của các cơ sở công nghiệp.
Chất thải từ các khu công
nghiệp, cơ sở y tế, phương tiện xe cộ… đang đầu độc nguồn nước và môi trường
sống của con người. Tình trạng trên đã ảnh hưởng nặng nề đến sinh hoạt hằng
ngày, sức khỏe của người dân. Ô nhiễm môi trường đang ngày càng trầm trọng, đặc biệt là tại các thành
phố lớn với nhiều khu công nghiệp và các cơ sở sản xuất nằm trong khu dân cư.
Tình trạng xả nước thải, chất thải rắn, khí thải không qua xử lý ra môi trường
đã tác động tiêu cực đến môi trường.
Không khí ô nhiễm có
thể giết chết nhiều cơ thể sống trong đó có con người. Ô nhiễm ozone có thể gây bệnh đường hô hấp, bệnh tim mạch, viêm
họng, đau ngực, tức thở. Ô nhiễm nước gây ra xấp xỉ 14.000 cái chết mỗi
ngày, chủ yếu do ăn uống bằng nước bẩn chưa được xử lý. Các chất hóa học và kim
loại nặng nhiễm trong thức ăn nước uống có thể gây ung thư
không thể chữa trị[20].
Tại Việt
Nam, vấn đề môi trường và ảnh hưởng của nó đến phát triển con người đang trở
thành thách thức. Ô nhiễm trên quy mô rộng, suy thoái cục bộ, có dấu hiệu khủng
hoảng môi trường do quá trình phát triển ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế, coi
nhẹ BVMT đang trở thành những rào cản lớn đối với sự phát triển của chính con
người Việt Nam – được hiểu như quá trình không ngừng mở rộng cơ hội và nâng cao
năng lực lựa chọn cho con người. Thứ nhất, sức khỏe, tính mạng người dân bị đe
dọa trực tiếp do tình trạng nhiễm khuẩn không khí, đất, nước, thực phẩm, bùng
phát dịch bệnh. Thứ hai, suy thoái môi trường làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên
tái sinh nuôi sống con người như biển, sông, hồ, đất màu, rừng, v.v. Thứ ba,
bất bình đẳng xã hội gia tăng do những doanh nghiệp gây ô nhiễm tạo ra chi phí
kéo theo về bệnh tật, giảm thu nhập lên những người khác, đặc biệt là nhóm yếu
thế như người nghèo, dân cư các vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu số… Thứ
tư, khủng hoảng môi trường, thiên tai bùng phát, biến đổi khí hậu đe dọa an
ninh, tính mạng và tài sản của con người. Những yếu tố trên đang là những trở
ngại hạn chế quyền phát triển, QCN đối với môi trường (cơ hội sinh kế, quyền
đảm bảo cuộc sống, quyền có sức khỏe, quyền an ninh môi trường…) và trên hết
quyền có một cuộc sống hạnh phúc của người dân Việt Nam16. Trước tình hình đó,
BVMT, phát triển bền vững lấy con người làm trung tâm đã trở thành một trong
những mục tiêu quan trọng định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt
Nam giai đoạn 2011-2020[21].
Để việc sử dụng các công
cụ tài chính bảo vệ có hiệu quả môi trường của thành phố, cần áp dụng đồng bộ
những giải pháp khác có liên quan, mà trước hết là[22]:
Thứ nhất, rà soát điều
chỉnh, thay thế, nâng cấp, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp lý về bảo vệ
môi trường.
Thứ hai, tăng cường xã
hội hoá các hoạt động cung cấp dịch vụ công ích đô thị, trước hết trong công
tác vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch và thoát nước; xây dựng, khai thác,
quản lý các công viên cây xanh, chợ, bến xe và các trung tâm dịch vụ khác...
nhằm tạo sự cạnh tranh lành mạnh, khắc phục sự quá tải, cải thiện dần chất
lượng các dịch vụ đô thị, trực tiếp góp phần bảo vệ môi trường.
Thứ ba, tăng cường sử
dụng hình thức đấu thầu và hợp đồng kinh tế về mua-bán dịch vụ trong các hoạt
động liên quan đến bảo vệ môi trường nhằm thúc đẩy cạnh tranh, tăng cường trách
nhiệm và phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của các cơ quan, doanh nghiệp,
tập thể và cá nhân trong các hoạt động đó.
Thứ tư, tăng cường phân
cấp và phối hợp, kiểm tra trong quản lý môi trường đô thị. Các quy định pháp lý
liên quan đến hoạt động bảo vệ môi trường cần được điều chỉnh theo hướng tăng
cường phân cấp quản lý các hoạt động bảo vệ môi trường cho các quận, huyện, xã,
phường và cơ sở trực tiếp hoạt động trên địa phương. Sự phân cấp nhiệm vụ, yêu
cầu bảo vệ môi trường trên từng địa bàn cần được khép kín, tập trung và bao
quát, tạo thuận lợi cho sự chủ động của địa phương, cơ sở, cũng như phát huy
sức mạnh, lợi thế, năng lực, trách nhiệm của từng cấp, từng cơ sở được phân cấp
trong tổng thể mạng lưới, guồng máy hoạt động bảo vệ môi trường của Thành phố, đồng
thời, kiện toàn công tác tổ chức, nâng cao năng lực, hiệu quả của các đơn vị,
tập thể trực tiếp tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường. Trước hết, cần xây
dựng những cơ quan chuyên trách về quản lý nhà nước trong công tác bảo vệ môi
trường theo hướng tập trung chức năng, định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm
và cơ chế hoạt động cụ thể, tránh tình trạng phân rải chức năng quản lý môi
trường một cách không rõ ràng hoặc vô hiệu hóa nhau.
Thứ năm, nâng cao
chất lượng và tôn vinh xứng đáng các cán bộ, nhân viên làm công tác bảo vệ môi
trường. Cùng với việc tăng cường thông tin - tuyên truyền giáo dục nhận thức
rộng rãi trong nhân dân về bảo vệ môi trường, cần quan tâm đúng mức đến đội ngũ
người lao động, cán bộ, nhân viên trực tiếp làm công tác bảo vệ môi trường theo
hướng chuyên nghiệp hoá, tiêu chuẩn hóa, phân công rõ trách nhiệm, quyền hạn và
đãi ngộ xứng đáng cả về vật chất, lẫn tinh thần cho từng người, từng chức danh
cụ thể.
Nghiên cứu hệ thống các
văn bản pháp luật hiện hành cho thấy, hầu hết các quy phạm pháp luật mới chỉ
dừng lại nguyên tắc chung, có tính định khung; chưa chú trọng việc lồng ghép
cách tiếp cận quyền con người trong bảo vệ môi trường. Các quy định của pháp
luật, chưa làm rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan tới bảo vệ môi
trường; chưa làm rõ việc bảo vệ môi trường không chỉ thuộc trách nhiệm của Nhà
nước mà còn là quyền và trách nhiệm của toàn xã hội, của mọi cá nhân và công
dân, cộng đồng dân cư.
Pháp luật chưa quy định
cụ thể, rõ ràng cả về quy trình, thủ tục để mọi cá nhân, công dân có thể tham
gia vào việc giám sát bảo vệ môi trường; tham gia vào việc ban hành các quyết
định và tiếp cận tư pháp trong lĩnh vực môi trường. Vì thế, hệ thống pháp luật
có liên quan tới bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay chưa thực sự thu hút, lôi
kéo được quần chúng nhân dân, các tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức xã hội
nghề nghiệp tham gia giám sát bảo vệ môi trường.
Trước thực trạng đó, dựa
trên cách tiếp cận quyền con người trong bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay,
cần rà soát, đánh giá lại hiện trạng pháp luật hiện hành, bổ sung, hoàn thiện
theo hướng lồng ghép cách tiếp cận quyền con người vào việc hoạch định chính
sách và pháp luật có liên quan tới bảo vệ môi trường. Bên cạnh việc hoàn thiện
hơn các quy định về xử lý hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự, cần nghiên
cứu bổ sung quy định trong Hiến pháp về công dân có quyền được sống và bảo đảm
quyền được sống trong môi trường trong lành và an toàn; quyền và trách nhiệm
của cá nhân, công dân được tham gia giám sát bảo vệ môi trường. Nghiên cứu bổ
sung và quy định chi tiết trong các văn bản luật và dưới luật về quyền của công
dân, các tổ chức xã hội, tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể quần chúng như mật
trận, thanh niên, phụ nữ, nông dân… được tham gia vào việc ban hành các quyết
định, chính sách có liên quan tới môi trường và giám sát bảo vệ môi trường; quy
định cụ thể hơn cả về trình tự, thủ tục liên quan tới quyền của cá nhân, công
dân được tiếp cận thông tin về môi trường và trách nhiệm của Nhà nước, doanh
nghiệp cung cấp và công khai thông tin, tác hại ảnh hướng đến môi trường; quy
định cụ thể về trình tự, thủ tục khởi kiện, trình tự khiếu nại đối với các
quyết định, chính sách có tác động đến môi trường; quyền được đền bù thiệt hại,
đánh giá tác động, thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường, tác động/ảnh
hưởng của ô nhiễm môi trường đến sức khỏe, quyền lợi về vật chất, tinh thần của
cá nhân, công dân và của cộng đồng dân cư.
Bên cạnh đó, để tăng
cường thực thi pháp luật về môi trường, Nhà nước sớm nghiên cứu đào tạo chuyên
sâu và phát triển đội ngũ cán bộ thực thi pháp luật, trước hết là cán bộ điều
tra, luật sư, công tố viên và thẩm phán về môi trường; có chính sách hỗ trợ các
văn phòng luật sư, văn phòng tư vấn pháp luật nhằm tư vấn, hỗ trợ về mặt pháp
lý cho người dân, cộng đồng dân cư, và giúp người dân giám sát việc thi hành
pháp luật, khởi kiện đối với các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, gây
thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, công dân và cộng đồng, dân
cư.
Học tập kinh nghiệm quốc tế
Tiếp cận quyền trong bảo vệ môi trường cho phép nâng cao
chất lượng sống của tất cả mọi người và con người trở thành trung tâm trong
việc ban hành các chính sách, pháp luật. Michael Anderson, tác giả nổi tiếng
cuốn sách “Tiếp cận quyền con người trong bảo vệ môi trường” đã gợi ý ba cách
tiếp cận[23]: Thứ nhất, huy
động và sử dụng các quyền đang tồn tại để đạt được mục đích môi trường; thứ
hai, giải thích lại các quyền hiện có, tính đến cả các mối quan tâm về môi
trường và thứ ba là tạo ra các quyền mới bao hàm đủ các đặc tính của môi
trường.
Thứ nhất, huy động và sử dụng các quyền đang tồn tại. Đó là
các quyền về dân sự, chính trị; quyền kinh tế xã hội và văn hóa; quyền tự
quyết. Các quyền này đã được quy định trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và Công ước
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966.
Công ước quốc
tế về các quyền dân sự, chính trị cung cấp khuôn khổ pháp lý và đạo đức bảo đảm
quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tham gia vào công việc nhà nước, xã hội;
quyền tự do hiệp hội, hội họp và lập hội; quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền
bồi thường và đền bù thiệt hại… Sự bảo đảm này là điều kiện tiên quyết để huy
động sự tham gia của mọi người trong bảo vệ môi trường. Quy định và xác lập
trách nhiệm của Nhà nước trong việc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện các quyền và
tự do cơ bản của cá nhân[24].
Công ước quốc
tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cung cấp khuôn khổ pháp lý và đạo
đức bảo vệ môi trường thông qua việc thiết lập chuẩn mực cho sự thịnh vượng
chung của cá nhân và tập thể, bao gồm bảo đảm pháp lý đối với các quyền về sức
khỏe, quyền của tất cả mọi người được quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên;
quyền có điều kiện sống tối thiểu của cá nhân và gia đình, quyền về thực phẩm,
quyền chăm sóc sức khỏe, quyền giáo dục…[25]
Thứ hai:
Giải thích lại các quyền hiện có. Nhiều nhà hoạt động môi trường và quyền con người hiện nay
cho rằng, huy động và sử dụng các quyền hiện có là chưa đủ để bảo vệ môi
trường, do vậy các quyền hiện có nhất định phải được giải thích lại trong bối
cảnh có sự liên quan của các vấn đề môi trường.
Ví dụ: Tòa án ở Ấn Độ, đã có một tiến bộ đáng
kể trong việc giải thích lại các quyền hiện có trong Hiến pháp, mở rộng nội hàm
khái niệm quyền sống, bao hàm cả các quy tắc liên quan đến bảo vệ môi trường.
Tòa án Ấn Độ đã giải thích rằng, quyền sống của con người không chỉ là sự tồn
tại, mà bao hàm cả quyền được sống trong môi trường sức khỏe không bị ô nhiễm,
một môi trường có sự cân bằng về hệ sinh thái và được Nhà nước bảo vệ.
Hiện nay ở
châu Phi, châu Âu và châu Mỹ, các công ước nhân quyền khu vực đều cung cấp các
bảo đảm cụ thể để bảo vệ quyền sức khỏe môi trường; công nhận tầm quan trọng
của sự tham gia của cộng đồng liên quan tới các quyết định về môi trường. Có
khoảng 60 nước trên thế giới đã công nhận trong Hiến pháp về quyền sức khỏe môi
trường. Ví dụ Hiến pháp Nam Phi quy định, mọi người có quyền: có môi trường
không gây hại tới sức khỏe và sự thịnh vượng của con người; quyền có môi trường
được bảo vệ vì lợi ích của các thế hệ hiện nay và mai sau[26].
Nhiều nước
khác công nhận quyền tiếp cận thông tin và tìm kiếm các bồi thường thiệt hại do
môi trường gây ra. Ví dụ, Hiến pháp Liên bang Nga thừa nhận, quyền môi trường
tối thiểu bao gồm tiếp cận thông tin chính xác và đền bù do gây hại tới sức
khỏe con người hay tài sản do vi phạm môi trường[27].
Thứ ba, tạo ra các quyền mới: Tiếp cận
này liên quan tới việc công nhận và thực hiện quyền môi trường trong bối cảnh
phát triển bền vững đã chỉ ra mối quan hệ rõ ràng giữa bảo vệ và thúc đẩy nhân
quyền với việc bảo tồn, bảo vệ và khôi phục môi trường.
Việc tạo ra
các quyền mới đòi hỏi cộng đồng quốc tế cùng nhau hợp tác và xây dựng các chuẩn
mực quốc tế chung để ứng phó với thách thức ngày càng gia tăng đối với môi
trường và phát triển. Các quyền mới chứa đựng các quy tắc và tiêu chuẩn chung
về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, đồng thời ngày càng được bổ sung
các nội dung mới, dựa trên sự phát triển và tác động của môi trường[28].¢
[1] Các công ước quốc tế về bảo vệ
môi trường (Việt – Anh) năm 1995, NXB Chính trị quốc gia,trang 11.
[2] Các công ước quốc tế về bảo vệ
môi trường (Việt – Anh) năm 1995, NXB Chính trị quốc gia,trang 31.
[3] Pháp luật về đánh giá môi trường
chiến lược ở Việt Nam – Thực trạng và hướng hoàn thiện, Mai Hữu Quyết, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Trường ĐH Luật TpHCM, năm
2010.
[4] Một số vấn đề pháp lý của việc xử
lý đối với cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại TP. Hồ Chí Minh, Nguyễn
Thị Thảo, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân luật, Trường ĐH Luật TpHCM, năm 2006.
[7] http://yeumoitruong.vn/forum/showthread.php?t=2138, đăng ngày 25/04/2008.
[8] Thông
tin được ông Hoàng Dương Tùng, GĐ Trung tâm Quan trắc và Thông tin môi trường
(Cục Bảo vệ Môi trường) đưa ra tại buổi công bố báo cáo “Triển vọng Môi trường
toàn cầu 4” của UNDP ngày hôm nay 26/10/2007 tại Hà Nội.
[10]http://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5_Vedan_x%E1%BA%A3_ch%E1%BA%A5t_th%E1%BA%A3i_ra_s%C3%B4ng_Th%E1%BB%8B_V%E1%BA%A3i
[11]
Ông Trần Như
Độ, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Đồng Nai, phát biểu trên báo Sài Gòn giải phóng,
ra ngày 29/09/2008.
[12]
Theo Khoa học &
Phát triển
[14]
http://www.baomoi.com/Tong-ket-cong-tac-thanh-tra-kiem-tra-tai-nguyen-moi-truong/58/5797706.epi
[15] http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/7/24/24/196825/Default.aspx, đăng ngày 09/07/2012.
[16] Phát biểu của bà Nguyễn Thị Hiền
Lương, Phó Giám đốc Sở Giao thông vận tải TPHCM vào ngày 18/08/2012 tại lễ
khánh thành giai đoạn 1 công trình cải tạo, xây dựng kênh Nhiêu Lộc-Thị Nghè và
đường Trường Sa, Hoàng Sa nằm ven kênh.
[17] http://www.monre.gov.vn/v35/default.aspx?tabid=428&CateID=24&ID=117978&Code=HM6H117978, đăng ngày 12/06/2012.
[20] Theo vi.wikipedia.org
[21] Nghiên cứu con người, Đào Thị Minh Hương, đăng
trên http://www.vacne.org.vn.
[22] TS. Nguyễn Minh Phong, http://unescovietnam.vn
[23] Tác giả cuốn sách: “Human-Rights-Approaches-Environmental-Protection”,
NXB Đại học Tổng hợp Oxford, Vương quốc Anh, năm 1996, tái bản năm 2003.
[24] Môi trường với quyền con người và vận dụng quyền con người trong bảo
vệ quyền môi trường ở Việt Nam, TS.Tường Duy Kiên, Bài đăng trên tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 172 (10/06/2010).
[25] Môi trường với quyền con người và vận dụng quyền con người trong bảo vệ
quyền môi trường ở Việt Nam, TS.Tường Duy Kiên, Bài đăng trên tạp chí Nghiên
cứu lập pháp số 172 (10/06/2010).
[26] Hiến pháp Cộng hòa Nam Phi, năm
1996, Điều 24.
[27] Hiến pháp Liên bang Nga, năm
1993, Điều 42.
[28] Môi trường với quyền con người và vận dụng quyền con người trong bảo vệ
quyền môi trường ở Việt Nam, TS.Tường Duy Kiên, Bài đăng trên tạp chí Nghiên
cứu lập pháp số 172 (10/06/2010).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét