GÓP Ý DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP: CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ, QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN VÀ TÒA ÁN NHÂN DÂN.
Bài đăng của tác giả LÊ NHẬT BẢO trên Tạp chí Sinh viên và Khoa học Pháp lý - Trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minhhttp://hinhsu34a.4forum.biz/t1728-topic#4078
Thuật ngữ "hiến
pháp" có nguồn gốc La tinh - "constitutio", được hiểu là xác định,
quy định và trong nhà nước cổ La Mã, được
dùng để chỉ các văn bản luật quan trọng
của nhà nước. Hiến pháp chỉ được hiểu với ý nghĩa như ngày nay khi các
cuộc cách mạng tư sản diễn ra ở châu Âu (từ
thế kỉ thứ XIII, XIV đến thế
kỉ XVIII, XIX) và khi đó, hiến pháp được
xem là văn bản có sứ mệnh xác lập chế độ mới thay thế chế độ cũ, là bản khế ước
xã hội của mọi người nhằm hướng tới mục tiêu ghi nhận, đề cao các quyền tự
nhiên của con người, bãi bỏ chế độ chuyên chế của vua chúa phong kiến, xác định
giới hạn của quyền lực nhà nước, hình thành những nguyên tắc tổ chức quyền lực
mới.[1] Hiến pháp có vị trí đặc biệt quan trọng
trong hệ thống pháp luật và đời sống chính trị của mỗi quốc gia. Hiến pháp được
coi là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của Nhà nước. Các quy định của Hiến pháp
là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Kể từ khi xuất hiện cho
đến hiện nay, Hiến pháp được nhìn nhận như là một trong những dấu hiệu thể hiện
nền văn minh, nền dân chủ của mỗi một quốc gia. Khi Nhà nước ta là Nhà nước
phong kiến và thực dân nửa phong kiến với chính thể quân chủ chuyên chế, do vậy
không có Hiến pháp. Trước sự phát triển của nền văn minh nhân loại sau cách mạng
tư sản ở Âu châu, ở nước ta đã xuất hiện
những tư tưởng lập hiến, muốn cho đất nước Việt
Nam cũng có một bản Hiến pháp như các nước dân chủ khác. Trong số các
nhà tư tưởng lập hiến của nước nhà thì nổi bậc phải kể đến là quan điểm của Hồ
Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trong điều kiện
kinh tế, xã hội, văn hóa, thù trong giặc ngoài vô cùng khó khăn, nước ta chưa
được thế giới công nhận là một quốc gia độc lập, nhưng với sự đoàn kết toàn
dân, toàn Đảng và sự lãnh đạo tài tình của Hồ Chí Minh, chỉ với khoảng 2 tháng,
từ tháng 9 đến tháng 11/1945, chúng ta đã có bản dự thảo hiến pháp được công bố
cho toàn dân đóng góp ý kiến. Đến tháng 11/1946, Quốc hội khóa II, tại kì họp
thứ hai, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Hiến pháp
1946 trở thành nền móng, cơ sở pháp lý, viên gạch đầu tiên xây dựng nhà nước,
quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và bảo vệ, đồng thời đặt cơ sở
cho các cuộc kháng chiến về sau. Tư tưởng của Người trong lập hiến mãi có giá
trị sâu sắc trong công tác xây dựng pháp luật nói chung cũng như Hiến pháp nói
riêng cho thế hệ mai sau.
Hiện nay ở nước ta, Hiến
pháp là đạo luật cơ bản do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành – Quốc
hội. Hiến pháp quy định những nội dung cơ bản, mang tính nguyên tắc trong tổ chức
nhà nước, cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ
các cơ quan nhà nước ở trung ương và quyền cơ bản của con người, của công dân.
Tuy nhiên, cũng như
các nước khác thuộc hệ thống dân luật (civil law), Việt Nam coi văn bản pháp luật
thành văn là nguồn luật chủ yếu để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nước ta không
thừa nhận án lệ (case law), cũng như nguyên tắc án lệ, chính vì thế mọi vấn đề
pháp lý phải được giải quyết bằng các quy phạm pháp luật được ban hành theo một
trình tự thủ tục luật định. Các quy phạm pháp luật có tính hệ thống và tương đối
ổn định, trong khi các quan hệ xã hội không ngừng vận động, phát triển. Chính sự
biến đổi không ngừng ấy đã tạo nên các quy phạm lỗi thời, lạc hậu. Các nhà làm
luật dù là những người xuất chúng thì cũng không thể dự trù hết khuynh hướng vận
động của các quan hệ xã hội, dẫn đến những lúc sẽ tạo ra các quy phạm pháp luật
bất hợp lý. Chính vì đặc điểm lý luận
pháp lý của hệ thống dân luật, chúng ta mặc dù vẫn tuân theo các quy phạm pháp
luật (nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa), nhưng không thể phủ nhận những hạn
chế của văn bản pháp luật thành văn nói chung và các nội dung Hiến pháp nói
riêng. Với
tư cách là luật mẹ, luật gốc của tất cả các nghành luật, là nguồn luật quan trọng
nhất của quốc gia, nên cần được nhân dân xem xét kỹ lưỡng trước khi có hiệu lực,
điều này là thật sự cần thiết.
Trong bối cảnh điều kiện
kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, chính trị hiện nay đã có sự thay đổi lớn,
các quy phạm trong Hiến pháp không còn phù hợp với tình hình thực tại, hòa mình
với tinh thần sửa đổi Hiến pháp đang được toàn dân, toàn Đảng hưởng ứng và cũng
là để thể hiện quyền công dân, quyền làm chủ đất nước, trong bài viết này tác
giả đề xuất một số quan điểm cá nhân về giải pháp cũng như kiến nghị cho dự thảo
sửa đổi hiến pháp hiện hành, tuy nhiên, vì kiến thức còn hạn chế, khả năng ngoại
ngữ không cao, nên việc tiếp cận các nguồn tài liệu nước ngoài là khó khăn,
cũng như có thể có sai xót về nội dung, nhưng với tinh thần cầu tiến, tác giả rất
mong nhận được sự góp ý chân thành từ phía độc giả.
1.
Chế
độ chính trị.
-
Không nên đề cao tính giai cấp của
Nhà nước.
Nhà nước
là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, bất kì một Nhà nước nào cũng đều có tính
giai cấp. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng không ngoại lệ. Bản
chất giai cấp của Nhà nước ta là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức, điều này được khẳng định nhiều lần qua nhiều văn kiện của các kì Đại hội
Đảng. Sự khẳng định trong các văn kiện ấy là cơ sở lý luận quan trọng và là nền
tảng xác định tính giai cấp của Nhà nước, vì thế không nhất thiết phải được khẳng
định lại trong Hiến pháp. Tại Điều 2 Dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992 (Dự thảo)
có đoạn “tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức” - không có gì khác so với quy định hiện hành. Cách
quy định như thế của các nhà làm luật dường như đề cao quá mức không cần thiết
đến tính giai cấp của Nhà nước, một mặt khẳng định Nhà nước ta là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, quyền lực thuộc về toàn thể nhân dân, thế
mà ngay đoạn kế tiếp lại nhấn mạnh sự sở hữu quyền lực nhà nước bằng cụm từ “mà nền tảng là ....” Với cách quy định
như vậy, các tầng lớp khác trong xã hội họ có cảm giác mình không được đề cao,
coi trọng như công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức. Sự liên minh giữa giai cấp công nông, nông dân và đội ngũ tri
thức là cần thiết, tuy nhiên khi mà chúng ta đang ra sức công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, hoàn thành mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, và để có được một xã hội như vậy, cần phải
huy động sức mạnh và có sự đóng góp công sức của toàn thể nhân dân, trong đó có
vai trò vô cùng quan trọng của các doanh nhân. Đó cũng là lực lượng mà Nhà nước
cần phải bảo vệ, động viên, tranh thủ sức mạnh và sự đóng góp của họ.
Vì thế, tác giả đề xuất
nên sửa đoạn đầu Điều 2 Dự thảo lại như sau: Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
-
Vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở của
chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, là công cụ để thực hiện quyền lực chính trị
của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Là nhà nước của
giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động, trong quá trình hình thành và
phát triển, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn gắn với vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân, người đại diện cho lợi ích cả
giai cấp công nhân, nhân dân lao động.[2] Sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản là tất yếu trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, bản chất của nội hàm nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã bao hàm vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng.
Ngay tại Điều 2 Dự thảo khẳng định “Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa” dẫn đến hệ quả là
toàn bộ mô hình tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước không thể xóa bỏ được
vai trò lãnh đạo của Đảng ở nước ta. Tuy nhiên, việc quy định tại Điều 4 Hiến
pháp hiện hành, cũng như Dự thảo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản là cần
thiết. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, là căn cứ xây dựng toàn bộ hệ thống
pháp luật, điều chỉnh các mối quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức chính trị,
kinh tế, xã hội và công dân. Do đó, việc Hiến pháp khẳng định về mặt nguyên tắc
Đảng "là lực lượng lãnh đạo Nhà nước
và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật" không phải do Đảng tự đề xướng, tự đề cao vai trò lãnh đạo của
mình, hay áp đặt ý chí buộc Hiến pháp phải ghi nhận, mà là có tính chất bắt
buộc đối với chính đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền, thuộc phạm vi điều
chỉnh của Hiến pháp. Ở nước ta, sự lãnh đạo của Đảng là tuyệt đối, sự lãnh đạo
này không có sự chia sẽ cho bất kì một tổ chức, hội nhóm nào khác, và hễ một
khi có chủ thể nào muốn tranh giành sự lãnh đạo ấy là đi ngược lại mong muốn
của toàn thể dân tộc Việt Nam, là hành vi vi phạm pháp luật, phải bị trừng trị
thích dáng.
Đảng là “đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”,
vì thế mọi chính sách của Đảng đều vì nhân dân, phục vụ dân, để có được những
chủ trương đúng đắn, phù hợp tình hình thực tiễn, Đảng phải xuất phát từ nhân
dân, và phải chịu sự giám sát của nhân dân. Chủ trương của Đảng đóng vai
trò quan trọng trong định hướng phát triển của toàn bộ xã hội trong một giai
đoạn lịch sử nhất định. Tuy nhiên, Đảng không phải là thần thánh, sẽ không
tránh những lúc có những quyết định, chủ trương sai lầm, sai lầm ấy dẫn đến hệ
quả vô cùng khó lường. Dự thảo đã bổ sung thêm đoạn “Đảng gắn bó mật thiết với
nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm
trước nhân dân về những quyết định của mình.” Tuy nhiên, hiện nay sự lãnh đạo của
Đảng, cũng như cơ chế giám sát, và cách thức chịu trách nhệm của Đảng trước
nhân dân còn chưa được luật hóa. Hầu hết các nhánh trong bộ máy nhà nước, ở một
cấp, một cơ quan, quyền và nghĩa vụ của từng chức danh trong bộ máy nhà nước
đều được quy định rất rõ trong các văn bản pháp luật, nhưng chính lực lượng
lãnh đạo cao nhất là Đảng Cộng sản lại chưa hề có bất kì một quy phạm nào điều
chỉnh, sự thiếu xót này dễ dấn đến lạm quyền, tiêu cực trong nội bộ Đảng. Suy
cho cùng thì tổ chức Đảng cũng chỉ là một thành viên của hệ thống chính trị,
tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, nên chính Đảng Cộng sản cũng
phải chịu sự điều chỉnh của Luật do chính Quốc hội – cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất ban hành. Việc điều chỉnh phạm vi hoạt động của Đảng Cộng sản chỉ có
thể được điều chỉnh bởi Luật, mà không thể là các văn bản dưới luật, vì thế nên
sửa lại Khoản 3 Điều 4 Dự thảo như sau: “Các
tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Luật.”
-
Hình thức thực hiện quyền lực nhân dân.
Theo quy định tại Điều 6 Hiến pháp năm 1992 thì “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng
nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do
nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.”
Hình thức thực hiện quyền lực nhân dân thể hiện như vậy là chưa đầy đủ.
Thực tiễn đã cho thấy, ngoài thể hiện quyền lực của mình thông qua cơ chế đại
diện như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, còn tồn tại hình thức dân chủ
trực tiếp, người dân tự mình thực hiện quyền làm chủ đất nước, thể hiện rõ nét
của hình thức này là quá trình trưng cầu dân ý hay sáng kiến pháp luật của nhân
dân. Nhằm mục đích khắc phục nhược điểm này, Điều 6 Dự thảo đã quy định “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực
tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.” Bổ sung cụm từ “thông qua các cơ quan khác của Nhà
nước”, vậy cơ quan này là cơ quan nào, tác giả cho rằng cách quy định như trên
là không giải quyết triệt để vấn đề. Cách thức thực hiện quyền lực nhân dân nên
được quy định rõ ràng hơn, để người dân có thể dễ dàng thực hiện quyền lực của
mình.
Theo quan điểm của PGS.TS Thái Vĩnh Thắng nên
sửa đổi lại Điều 6 Dự thảo như sau: “Nhân
dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách
nhiệm trước nhân dân. Nhân dân còn có thể thực hiện quyền lực của mình thông
qua hình thức trưng cầu dân ý, theo đó các vấn đề quan trọng của đất nước như
bổ sung và sửa đổi Hiến pháp, quyết định
các vấn đề quan trọng của Nhà nước về đối nội và đối ngoại, Nhà nước phải tổ
chức trưng cầu dân ý lấy ý kiến nhân dân để quyết định”.[3]
Về cơ bản, tác giả đồng tình với
quan điểm này, tuy nhiên, với tính chất là quy định các nguyên tắc cơ bản, Hiến
pháp cần được quy định ngắn gọn, xúc tích, vì thế nên quy định ngắn gọn hơn.
Tác giả đề xuất sửa đổi lại như sau: Nhân
dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng hình thức dân chủ đại diện thông qua Quốc
hội, Hội đồng nhân dân và đối với các vấn đề quan trọng của đất nước như bổ
sung và sửa đổi Hiến pháp, quyết định
các vấn đề quan trọng của Nhà nước về đối nội và đối ngoại, Nhà nước phải tổ
chức trưng cầu dân ý lấy ý kiến nhân dân để quyết định.
-
Bổ sung nguyên tắc bầu cử tự do.
Trong nhà nước dân chủ,
bầu cử được tiến hành để xác định quyền cho những người đại diện nắm giữ những
cương vị chính trị. Một vấn đề quan trọng của Luật Hiến pháp là việc nhân dân
lựa chọn (bằng cách bầu) đại diện của mình để giữ những chức danh nhà nước ở
trung ương và địa phương - cơ sở để cho rằng nhà nước được nhân dân trao quyền
và cũng theo đó mà hệ quả logic tất yếu theo tư duy dân chủ là nhà nước thực
hiện quyền lực chừng nào nhân dân còn tín nhiệm. Như vậy, bầu cử là phương thức
được sử dụng để quyền lực nhà nước thiết lập ra bởi nhân dân. Vì thế việc phản
ánh trung thực ý chí của nhân dân là vấn đề cốt lõi của mọi cuộc bầu cử.[4] Từ cuộc tổng tuyển cử đầu tiên ở nước ta được tiến
hành vào 6/1/1946 chúng ta đã tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng,
trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Tinh thần ấy còn được giữ đến Hiến pháp năm 1992, và được giữ lại trong
Điều 7 Dự thảo. Tuy nhiên, việc bầu cử là quyền tự do của công dân, công dân tự
giác đi bầu, không có cơ quan nào, tổ chức nào ép buộc công dân phải thực hiện
quyền này. Ý chí nhân dân là
vấn đề quan trọng nhất của bầu cử bởi vì chỉ khi bầu cử hoàn toàn tự do, tự
nguyện, thì ý nghĩa dân chủ đích thưc của nó mới đạt được.Từ đó, tác giả kiến nghị nên ghi
nhận nguyên tắc bầu cử tự do vào Điều 7 Dự thảo, điều này hoàn toàn phù hợp với
nguyên tắc Nhà nước ta là một Nhà nước dân chủ được quy định tại Điều 1 Hiến
pháp.
2.
Quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân.
Trong
toàn bộ các vấn đề của loài người, quyền con người là những vấn đề có lịch sử
lâu đời về cả phương diện thực tiễn cũng như lý luận. Đó luôn luôn là mối quan
tâm của nhân loại ở mỗi thời kỳ phát triển của nó. Mỗi thời kỳ phát triển của
quyền con người đều gắn liền và là thành quả của cuộc đấu tranh giai cấp, cách
mạng, xã hội, phản ảnh quá trình nhân loại tự giải phóng mình.[5] Kể từ năm 2007, khi Hiến chương ASEAN được thông
qua, các quốc
gia thành viên đã pháp
điển hoá và
cập nhật một cách có
hệ thống các nguyên
tắc và quy định phân tán
trước kia, tạo
cơ sở pháp lí
đầy đủ và cụ thể cũng
như ràng buộc
trách nhiệm pháp lí cho
quan hệ giữa
các quốc gia
thành viên trong quá trình hợp
tác khu vực
trên các lĩnh vực,
trong đó có vấn đề
nhận thức bảo vệ
quyền con người.[6] Do vậy
hiển nhiên những vấn đề đó cũng là điểm nóng trong công tác sửa đổi Hiến pháp
lần này. Điểm mới đáng hoan nghênh trong Dự thảo sửa đổi hiến pháp lần này là
Dự thảo đã bổ sung nhiều yếu tố về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân, ghi nhận 16 quyền con người, kể cả người nước ngoài và người
không quốc tịch. Đây không phải là lần đầu tiên chúng ta ghi nhận quyền con
người, Hiến pháp 1992 và các bản hiến pháp trước đó đều có các quy định liên
quan đến quyền con người, tuy nhiên nó được ghi nhận tản mát tại nhiều điều
khoản khác nhau trong các chương khác nhau. Trong lần sửa đổi này, chúng ta đã
quy định lại một cách rõ ràng, cụ thể quyền con người, và có sự phân biệt với
quyền công dân. Qua quá trình nghiên cứu, tác giả có một số kiến nghị như sau:
-
Quyền giám sát, phản biện của công
dân.
Theo quy định tại
Khoản 2 Điều 9 Dự thảo thì Mặt trận phải
vận động nhân dân giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của cơ quan nhà
nước, đây dường như là một chủ trương, một lời hô hào, vận động hơn là
thiết chế để nhân dân có thể thực hiện quyền giám sát, phản biện xã hội của
mình. Quyền giám sát, phản biện xã hội là quyền cơ bản của công dân, thể hiện
sự làm chủ đất nước của nhân dân. Khi mà nhân dân trao quyền quản lý, làm chủ
của mình cho Nhà nước để Nhà nước có thể hiện quyền làm chủ tốt hơn, công bằng
và văn minh hơn, thì chính nhân dân phải có quyền giám sát các hoạt động ấy của
Nhà nước. Khi thấy cần thiết, nhân dân sẽ phản biện lại các đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Và vì thế, quyền giám sát, phản
biện cần phải được quy định bởi một Điều luật tại Chương 2. Khi có phản biện từ
nhân dân Nhà nước có trách nhiệm tiếp nhận và phản hồi các ý kiến, kiến nghị
của công dân thông qua hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tạo điều kiện, bảo
đảm cho công dân thực hiện quyền giám sát và phản biện xã hội.
Từ đó, tác giả đề
xuất nên bổ sung thêm một điều tại Chương 2 với nội dung như sau: Công dân có quyền thực hiện quyền giám sát,
phản biện xã hội các hoạt động của các cơ quan nhà nước. Cơ quan, người có thẩm
quyền có trách nhiệm đảm bảo, tạo điều kiện cho công dân được thực hiện các
quyền này theo trình tự luật định.
-
Giới hạn quyền con người, quyền công dân.
Tại Khoản 1 Điều 15 Dự thảo : Ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền con người, quyền công dân được Nhà nước
và xã hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quy
định này thể hiện sự tôn trọng các quyền con người, quyền công dân, nhưng sự
tôn trọng và được bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật, tức sự thừa nhận ấy được
giới hạn bởi các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Khoản 2 Điều này lại “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị
giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng” tác giả cho rằng quy định
này đã bị thừa, bởi ngay Khoản 1 chúng ta đã xác định những quyền ấy được công
nhận và được thể hiện với những giới hạn nhất định theo quy định của pháp luật,
việc quy định thêm Khoản 2 này dễ làm cho Khoản 1 trở nên không còn giá trị.
Bên cạnh đó, các khái niệm an ninh quốc gia, an toàn xã hội, đạo đức... khá mơ
hồ và không hề dễ để định nghĩa chuẩn được, nó trở thành chỗ hở để bị lợi dụng
mà tước bỏ quyền con người, quyền công dân. Từ đó, tác giả đề xuất nên bỏ khoản
2 Điều 21 Dự thảo hoặc bổ sung vào khoản này đoạn sau: “theo quy định của luật”. Và khi chưa có luật của Quốc hội về những
trường hợp giới hạn quyền này của con người, của công dân thì không một ai có
thể khước từ quyền con người, quyền công dân.
-
Quyền
được sống.
Quyền sống hay quyền được sống hay quyền sinh sống, quyền sống còn là thuật ngữ mô
tả về một sự tin tưởng rằng con người hoàn toàn được quyền có điều kiện và các
yếu tố cần thiết để sinh sống và không bị giết bởi một chủ thể khác (con người,
nhà nước, các tổ chức....) về các vấn đề nạo phá thai, án tử hình, cái chết nhân đạo, giết người để tự vệ và chiến tranh. Quyền sống là một
trong những nội dung quan trọng của Nhân quyền.[7]
Nói về quyền được sống, Dự thảo đã
đưa thêm một quy định mới, cụ thể tại Điều 21 Dự thảo “Mọi người có quyền sống”, nếu quy định này có hiệu lực trên thực tế thì
dẫn đến hệ quả là một cá nhân không bao giờ có thể bị tước bỏ quyền sống bởi
bất kì một chủ thể nào, cho dù là người này đã thực hiện hành vi phạm tội rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hiểm đặc biệt cho xã hội, đe
dọa đến sự tồn vong của nhân loại. Khi đó chúng ta phải sửa đổi Bộ luật hình sự
hiện hành theo hướng bỏ hình phạt tử hình đối với tất cả các tội phạm đang có
quy định về hình phạt tử hình. Tuy nhiên, sẽ là đáng ngại nếu như khi quy định
về quyền được sống có hiệu lực mà Bộ luật hình sự chưa được sửa đổi theo hướng
đó, thì vấn đề được đặc ra cần phải giải quyết là hiệu lực của hình phạt tử
hình lúc này có hiệu lực hay không và việc một Tòa án căn cứ vào các quy định
của pháp luật hình sự để tuyên phạt một người bị tử hình thì hành vi đó có vi
hiến hay không? Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009, trong quá
trình sửa đổi đã có nhiều chuyên gia góp ý về việc loại bỏ hoàn toàn hình phạt
tử hình ra hệ thống hình phạt, tuy nhiên quan điểm đã không được chấp nhận, và
chỉ loại bỏ đối với một số tội phạm nhất định, quyết định này là cần thiết và
phù hợp với tình hình xã hội thực tiễn. Bên cạnh đó, xã hội chỉ phát triển đến một mức độ nhất
định mà cụ thể chỉ khi Nhà nước thay mặt cho nhân dân vì lợi ích chung của cộng
đồng có quyền tuyên tước đi tính mạng cá biệt của một cá nhân cụ thể với các
quy định và trình tự thủ tục pháp lý cụ thể.
Từ lập luận trên, tác giả xét thấy
chúng ta nên có sửa lại Điều 21 Dự thảo theo một trong hai cách. Cách đơn giản
nhất là loại bỏ quy định tại Điều 21 Dự thảo, tuy nhiên, tác giả cũng cho rằng
quyền được sống là một quyền thiêng liêng và cao quý, Nhà nước ghi nhận quyền
sống của con người chứng tỏ là Nhà nước dành sự quan tâm đặc biệt đến quyền con
người, việc chúng ta không quy định quyền này thì e là thụt lùi so với các nước
khác. Cách thứ hai là cách mà tác giả cho là khả thi hơn là bổ sung vào Điều 21
Dự thảo đoạn “trừ khi một người thực hiện
một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng được quy định trong Bộ
luật hình sự”.
-
Cơ
quan có thẩm quyền có trách nhiệm bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình của công dân.
Điều 26 của Dự thảo quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.
Liên quan đến các nội dung về tự do báo chí, hội họp, biểu tình, đã từng là những
vấn đề khá nhạy cảm ở nước ta, người dân tiếp cận nó không thực sự tự do, thoải
mái như đúng tinh thần mà Hiến pháp đã dành cho công dân của mình. Bên cạnh đó,
các cơ quan chức năng dựa vào cụm từ “theo
quy định của pháp luật” để hạn chế quyền biểu tình của công dân là vi hiến.
Khi mà chúng ta chưa có các quy định pháp luật cụ thể để điều chỉnh nội dung
này, trong khi Hiến pháp đã công nhận quyền này cho công dân, nên các quyền này
phải được bảo đảm và thực thi trên thực tế, mà không thể bị hạn chế bởi bất kì
một cơ quan nào. Bên cạnh đó để bảo đảm rằng các quy định này được bảo đảm nên
bổ sung thêm quy định sau: “Cơ quan nhà
nước trong nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải tạo điều kiện để công dân thực hiện
các quyền này. Nghiêm cấm hành vi cản trở quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.
-
Vị trí, vai trò của thanh niên.
Trong Dự thảo lần này
đã bỏ đi Điều 66 Hiến pháp 1992, như vậy thì toàn bộ bản Hiến pháp mới dựa trên
tinh thần của Dự thảo không hề có một điều khoản nào quy định về vai trò, vị
trí của thanh niên. Trong khi hầu hết các giai cấp, tầng lớp quan trọng khác của
xã hội đều được Dự thảo quy định trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ để các họ thấy
được vai trò, vị trí quan trọng của mình trong công cuộc xây dựng đất nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Thiết nghĩ, thế hệ thanh niên ngày nay không chỉ
có nhiều sức khỏe, mà còn rất nhạy bén, linh hoạt, thông minh, dễ dàng thích ứng
với những tiến bộ của khoa học kĩ thuật hiện đại, Việt Nam không thể thiếu đi sự
đóng góp của bộ phận thanh niên. Trong công cuộc xây dựng đất nước với bối cảnh
hội nhập sâu và rộng, hòa nhập nhưng không hòa tan, mỗi thanh niên phải có lập
trường tư tưởng vững vàng trước nhiều luồn văn hóa du nhập vào Việt Nam, và đặc
biệt là trước những thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá, gây mất đoàn kết
nội bộ dân tộc, thanh niên Việt Nam phải nắm rõ được trách nhiệm của mình trong
xã hội năng động này. Và vì thế không nên bỏ Điều 66 Hiến pháp 1992, nên giữ lại
quy định này, nó góp phần giúp cho mỗi thanh niên ý thức được tầm quan trọng của
mình trong xây dựng đất nước phát triển.
-
Công dân có quyền làm mọi việc mà
pháp luật không cấm.
Nước ta theo truyền thống
dân luật, coi văn bản pháp luật thành văn là nguồn luật chủ yếu để điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Ưu điểm của văn bản pháp luật thành văn là tính hệ thống và
ổn định của nó, được ban hành theo một trình tự luật định, là sản phẩm trí tuệ
của một tập thể người. Tuy nhiên, nó lại có một khuyết điểm rất lớn là không thể
nào lường hết các sự việc xảy ra trong xã hội, lúc đó sẽ xuất hiện lỗ hổng pháp
luật, bên cạnh đó theo thời gian, sự biến động không ngừng của xã hội đã để lại
các quy phạm cũ lỗi thời, lúc này các nhà làm luật tiến hành sửa luật để điều
chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội mới phát sinh, tuy nhiên quá trình này không
có điểm kết thúc. Trong điều kiện ấy, sẽ xuất hiện trường hợp một cá nhân thực
hiện hành vi có tính chất nguy hại cho Nhà nước mà hành vi ấy chưa được điều chỉnh
bởi pháp luật thì liệu họ có bị xử phạt hay không?
Pháp luật là công cụ để
Nhà nước quản lý xã hội, định hướng các quan hệ xã hội vận động theo khuynh hướng
mà Nhà nước đã đặt ra, Nhà nước là chủ thể duy nhất và có trách nhiệm ban hành
pháp luật để điều chỉnh xã hội, việc tồn tại lỗ hổng của pháp luật hay các quy
phạm lỗi thời, không bắt kịp sự vận động của xã hội là lỗi của Nhà nước chứ
không phải của nhân dân. Khi đó việc một người thực hiện hành vi, mà hành vi
chưa được pháp luật điều chỉnh, hay bị cấm thực hiện thì họ có quyền làm. Tinh
thần ấy cần phải được ghi nhận trong lần sửa đổi Hiến pháp sắp tới. Ghi nhận
nguyên tắc “Công dân có quyền làm mọi việc
mà pháp luật không cấm” sẽ là kim chỉ nam cho tất cả các nghành luật khác,
là định hướng hoạt động cho tất cả các cơ quan nhà nước khi muốn xử lý một hành
vi của một công nào đó.
3.
Tòa
án nhân dân.
Với quy định hiện hành
thì hệ thống tòa án của chúng ta bao gồm Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa
phương, các Toà án quân sự, có sự tách bạch giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân
sự. Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 107 Dự thảo thì Tòa án nhân dân gồm Tòa án
nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định, nghĩa là chỉ có một hệ thống
tòa án duy nhất là Tòa án nhân dân, thậm chí Tòa án quân sự (nếu có) cũng nằm
bên trong cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân. Đồng thời có nhiều điểm mới trong
Dự thảo đã khắc phục được những hạn chế của Hiến pháp 1992 như việc bổ sung
thêm cụm từ trừ trường hợp do luật định
tại Khoản 1 Điều 108 về sự tham gia xét xử của Hội thẩm, tại khoản 4 Điều 108 về
xét xử tập thể và quyết định theo đa số...Nếu đem so sánh với Hiện pháp hiện
hành, thì nhiều văn bản pháp luật như Luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng dân sự
đã vi hiến khi tại phiên tòa phúc thẩm không có sự tham gia của Hội thẩm (Điều
53 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về thành xét xử phúc thẩm không có sự tham
gia của Hội thẩm, Điều 244 Bộ luật tố tụng hình sự thì quy định về sự tham gia
của Hội thẩm chỉ khi xét thấy cần thiết). Tuy nhiên, có hai vấn đề cần phải được
bổ sung vào Dự thảo lần này để mọi người
cùng xem xét.
Thứ nhất: về quyền bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam, bị
can, bị cáo.
Khoản 7 Điều 108 Dự thảo “Quyền bào
chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.”
Như vậy, Dự thảo ghi nhận quyền bào chữa của những người này, đối tượng được hưởng
quyền bào chữa theo Dự thảo rộng hơn so với Hiến pháp hiện hành, tuy nhiên,
trên thực tế các cơ quan tiến hành tố tụng có thể tìm cách để hạn chế quyền này
của họ. Và thực tế đã có rất nhiều trường hợp như thế, vì vậy cần phải quy định
một cách mạnh mẽ và chắc chắn hơn về quyền bào chữa của công dân. Xét cho cùng
thì quyền bào chữa vẫn còn cho đến khi họ bị kết tội bởi một bản án có hiệu lực
pháp luật, nên cơ quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm có sự tham gia của người
bào chữa trong các giai đoạn tố tụng, khi không có người bào chữa thì người tiến
hành tố tụng không được phép thực hiện các hành vi tố tụng nào, trừ khi chính họ
đã từ chối quyền này. Điều này góp phần thể hiện nền văn minh, dân chủ của nước
ta, và cũng là cách thức giúp cho những người bị buộc tội nắm rõ các quy định
pháp luật để có quyết định phù hợp cho lợi ích của mình. Từ đó, tác giả đề nghị
sửa lại Khoản 7 này như sau: Quyền bào chữa
của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm. Bị
can, bị cáo có thể tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; đương sự
có thể tự mình, nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ lợi ích hợp pháp. Người tiến
hành tố tụng không được phép thực hiện bất kì hành vi tố tụng nào cho đến khi
có sự có mặt của người bào chữa cho họ, ngoại trừ những trường hợp luật định.
Thứ
hai: vai trò của án lệ.
Như đã phân tích ở trên, nước ta theo truyền thống dân luật, án lệ hay
nguyên tắc án lệ không được thừa nhận. Tuy nhiên, ưu điểm của án lệ thì chúng
ta không thể phủ nhận được, đó là tính linh hoạt, nhạy bén, kịp thời điều chỉnh
các quan hệ xã hội, sẽ không có trường hợp Tòa án không thể xử được vì không có
luật điều chỉnh. Mặc dù trên phương diện lý luận, chúng ta phủ nhận vai trò của
án lệ, nhưng thực tiễn xét xử, các thẩm phán thường xuyên có hoạt động xem xét
các bản án của các tòa án khác có tình tiết tương tự với vụ việc mà mình đang
giải quyết để làm nguồn cứ liệu tham khảo khi xét xử, thực tế này diễn ra khá
phổ biến. Ngoài ra, các nhà làm luật sẽ không bao giờ có thể dự liệu hết được
những vận động của xã hội để mà luật hóa, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay,
lúc ấy sẽ tạo ra lỗ hồng của pháp luật. Vì vậy chúng ta cũng nên thừa nhận án lệ
như là một nguồn luật bên cạnh văn bản pháp luật thành văn. Xét cho cùng, thì
Hiến pháp cũng là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng bị quy định bởi các quan hệ
sản xuất của cơ sở hạ tầng, cho nên khi tình hình thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải
ghi nhận án lệ thì Hiến pháp với tư cách là luật mẹ cũng không thể đứng ngoài
được. Bên cạnh đó, về mặt pháp lý cũng đã có những hoạt động mang tính chất thu
thập án lệ như : tổng kết thực tiễn xét xử,
bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Từ những lập luận trên,
tác giả mạnh dạn đề nghị nên bổ sung vào Khoản 3 Điều 109 Dự thảo như sau: Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm làm
án lệ theo quy định của pháp luật.
4.
Kết luận.
Các Nhà nước khi tiến hành cải tổ bộ máy, đổi mới phương thức hoạt động,
quản lý, đều dành sự quan tâm đặc biệt tới bản Hiến pháp của mình, điều này là
tất yếu khách quan bởi Hiến pháp không chỉ đơn thuần này một văn bản pháp luật
mà vị trí của nó chỉ đứng sau bản tuyên ngôn độc lập, đứng trên toàn bộ các văn
bản pháp luật khác, điều chỉnh toàn bộ bộ máy Nhà nước cũng như chính Đảng của
nó. Một Nhà nước dân chủ, văn minh, thật sự độc lập thì nhất thiết phải có lấy
cho mình một bản Hiến pháp được hình thành bởi ý chí và nguyện vọng đa số nhân
dân nước đó. Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 1980 được thay bằng Hiến pháp năm 1992
và được sửa đổi và bổ sung năm 2001, và đang trong quá trình góp ý cho Dự thảo
sửa đổi Hiến pháp 1992, tất cả các bản Hiến pháp đã , đang và sẽ rất cần sự
đóng góp tích của tất cả nhân dân, tất cả các tầng lớp, giai cấp, thành phần
khác nhau trong xã hội, có đảm bảo được hoạt động đóng góp của nhân dân cho Hiến
pháp tốt thì bản Hiến pháp được ban hành mới phản ánh được tính dân chủ của chế
độ xã hội chủ nghĩa. Chắc chắn trong thời gian tới chúng ta sẽ có bản Hiến pháp
2013 với nhiều điểm mới, ưu việt từ chế độ chính trị, đến cơ cấu tổ chức bộ máy
nhà nước, hệ thống cơ quan xét xét và đặc biệt là lần này chúng ta đã giành sự
quan tâm đặc biệt đến quyền con người, quyền làm chủ của nhân dân đối với đất
nước của mình, cũng như hình thành một số cơ quan mới. Hy vọng rằng, đây sẽ là
bản Hiến pháp có sức sống mãnh liệt nhất trong tất cả các bản Hiến pháp của nước
nhà, và nó sẽ trở thành điều kiện thuận lợi để Việt Nam hội nhập hơn nữa vào
các quan hệ quốc tế.
[1] TS. Hoàng Văn Tú, Quan niệm về hiến pháp và xu hướng phát triển
của hiến pháp, Tạp chí Luật học số 10/2011.
[2] Giáo trình Lí luận nhà nước và
pháp luật – Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, tr. 351, năm
2012.
[3] PGS.TS Thái Vĩnh Thắng, Nhu cầu, phạm vi và nội dung sửa đổi hiến
pháp năm 1992, Tạp chí luật học số 12/2011.
[4] Th.S Trần Thanh Hương, Ý chí nhân dân trong bầu cử và một vài ý
kiến góp phần bảo đảm ý chí nhân dân trong bầu cử ở nước ta, Tạp chí khoa học
pháp lý số 3/2006.
[5] Nguyễn Quang Hiền, Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, Tạp
chí khóa học pháp lý số 02/2004.
[6] TS. Nguyễn Lan Nguyên, Hiến chương Asian và nhận thức bảo vệ quyền
con người tại các quốc gia Asian, Tạp chí luật học số 7/2011.
[7] Theo http://en.wikipedia.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét