Thứ Hai, 10 tháng 6, 2013

GÓP Ý DỰ THẢO SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP


Thuật ngữ "hiến pháp" có nguồn gốc La tinh  -  "constitutio", được hiểu là xác định, quy định và trong  nhà nước cổ La Mã, được dùng để chỉ các văn bản  luật  quan trọng  của nhà nước. Hiến pháp chỉ được hiểu với ý nghĩa như ngày nay khi các cuộc cách mạng tư sản diễn ra ở châu Âu (từ  thế kỉ  thứ XIII, XIV  đến  thế kỉ XVIII, XIX) và khi đó, hiến pháp  được xem là văn bản có sứ mệnh xác lập chế độ mới thay thế chế độ cũ, là bản khế ước xã hội của mọi người nhằm hướng tới mục tiêu ghi nhận, đề cao các quyền tự nhiên của con người, bãi bỏ chế độ chuyên chế của vua chúa phong kiến, xác định giới hạn của quyền lực nhà nước, hình thành những nguyên tắc tổ chức quyền lực mới.[1]  Hiến pháp có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật và đời sống chính trị của mỗi quốc gia. Hiến pháp được coi là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của Nhà nước. Các quy định của Hiến pháp là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. 
Kể từ khi xuất hiện cho đến hiện nay, Hiến pháp được nhìn nhận như là một trong những dấu hiệu thể hiện nền văn minh, nền dân chủ của mỗi một quốc gia. Khi Nhà nước ta là Nhà nước phong kiến và thực dân nửa phong kiến với chính thể quân chủ chuyên chế, do vậy không có Hiến pháp. Trước sự phát triển của nền văn minh nhân loại sau cách mạng tư sản ở  Âu châu, ở nước ta đã xuất hiện những tư tưởng lập hiến, muốn cho đất nước Việt  Nam cũng có một bản Hiến pháp như các nước dân chủ khác. Trong số các nhà tư tưởng lập hiến của nước nhà thì nổi bậc phải kể đến là quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trong điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, thù trong giặc ngoài vô cùng khó khăn, nước ta chưa được thế giới công nhận là một quốc gia độc lập, nhưng với sự đoàn kết toàn dân, toàn Đảng và sự lãnh đạo tài tình của Hồ Chí Minh, chỉ với khoảng 2 tháng, từ tháng 9 đến tháng 11/1945, chúng ta đã có bản dự thảo hiến pháp được công bố cho toàn dân đóng góp ý kiến. Đến tháng 11/1946, Quốc hội khóa II, tại kì họp thứ hai, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Hiến pháp 1946 trở thành nền móng, cơ sở pháp lý, viên gạch đầu tiên xây dựng nhà nước, quyền con người, quyền công dân được tôn trọng và bảo vệ, đồng thời đặt cơ sở cho các cuộc kháng chiến về sau. Tư tưởng của Người trong lập hiến mãi có giá trị sâu sắc trong công tác xây dựng pháp luật nói chung cũng như Hiến pháp nói riêng cho thế hệ mai sau.
Hiện nay ở nước ta, Hiến pháp là đạo luật cơ bản do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành – Quốc hội. Hiến pháp quy định những nội dung cơ bản, mang tính nguyên tắc trong tổ chức nhà nước,  cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ các cơ quan nhà nước ở trung ương và quyền cơ bản của con người, của công dân. Tuy nhiên, cũng như các nước khác thuộc hệ thống dân luật (civil law), Việt Nam coi văn bản pháp luật thành văn là nguồn luật chủ yếu để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Nước ta không thừa nhận án lệ (case law), cũng như nguyên tắc án lệ, chính vì thế mọi vấn đề pháp lý phải được giải quyết bằng các quy phạm pháp luật được ban hành theo một trình tự thủ tục luật định. Các quy phạm pháp luật có tính hệ thống và tương đối ổn định, trong khi các quan hệ xã hội không ngừng vận động, phát triển. Chính sự biến đổi không ngừng ấy đã tạo nên các quy phạm lỗi thời, lạc hậu. Các nhà làm luật dù là những người xuất chúng thì cũng không thể dự trù hết khuynh hướng vận động của các quan hệ xã hội, dẫn đến những lúc sẽ tạo ra các quy phạm pháp luật bất hợp lý.  Chính vì đặc điểm lý luận pháp lý của hệ thống dân luật, chúng ta mặc dù vẫn tuân theo các quy phạm pháp luật (nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa), nhưng không thể phủ nhận những hạn chế của văn bản pháp luật thành văn nói chung và các nội dung Hiến pháp nói riêng. Với tư cách là luật mẹ, luật gốc của tất cả các nghành luật, là nguồn luật quan trọng nhất của quốc gia, nên cần được nhân dân xem xét kỹ lưỡng trước khi có hiệu lực, điều này là thật sự cần thiết.
Trong bối cảnh điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, chính trị hiện nay đã có sự thay đổi lớn, các quy phạm trong Hiến pháp không còn phù hợp với tình hình thực tại, hòa mình với tinh thần sửa đổi Hiến pháp đang được toàn dân, toàn Đảng hưởng ứng và cũng là để thể hiện quyền công dân, quyền làm chủ đất nước, trong bài viết này tác giả đề xuất một số quan điểm cá nhân về giải pháp cũng như kiến nghị cho dự thảo sửa đổi hiến pháp hiện hành, tuy nhiên, vì kiến thức còn hạn chế, khả năng ngoại ngữ không cao, nên việc tiếp cận các nguồn tài liệu nước ngoài là khó khăn, cũng như có thể có sai xót về nội dung, nhưng với tinh thần cầu tiến, tác giả rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ phía độc giả.

1.                  Chế độ chính trị.
-                      Không nên đề cao tính giai cấp của Nhà nước.
Nhà nước là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, bất kì một Nhà nước nào cũng đều có tính giai cấp. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng không ngoại lệ. Bản chất giai cấp của Nhà nước ta là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, điều này được khẳng định nhiều lần qua nhiều văn kiện của các kì Đại hội Đảng. Sự khẳng định trong các văn kiện ấy là cơ sở lý luận quan trọng và là nền tảng xác định tính giai cấp của Nhà nước, vì thế không nhất thiết phải được khẳng định lại trong Hiến pháp. Tại Điều 2 Dự thảo sửa đổi hiến pháp 1992 (Dự thảo) có đoạn “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” - không có gì khác so với quy định hiện hành. Cách quy định như thế của các nhà làm luật dường như đề cao quá mức không cần thiết đến tính giai cấp của Nhà nước, một mặt khẳng định Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, quyền lực thuộc về toàn thể nhân dân, thế mà ngay đoạn kế tiếp lại nhấn mạnh sự sở hữu quyền lực nhà nước bằng cụm từ “mà nền tảng là ....” Với cách quy định như vậy, các tầng lớp khác trong xã hội họ có cảm giác mình không được đề cao, coi trọng như công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức. Sự liên minh giữa giai cấp công nông, nông dân và đội ngũ tri thức là cần thiết, tuy nhiên khi mà chúng ta đang ra sức công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hoàn thành mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, và để có được một xã hội như vậy, cần phải huy động sức mạnh và có sự đóng góp công sức của toàn thể nhân dân, trong đó có vai trò vô cùng quan trọng của các doanh nhân. Đó cũng là lực lượng mà Nhà nước cần phải bảo vệ, động viên, tranh thủ sức mạnh và sự đóng góp của họ.
Vì thế, tác giả đề xuất nên sửa đoạn đầu Điều 2 Dự thảo lại như sau: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

-                      Vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa, là công cụ để thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Là nhà nước của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động, trong quá trình hình thành và phát triển, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn gắn với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đội tiên phong của giai cấp công nhân, người đại diện cho lợi ích cả giai cấp công nhân, nhân dân lao động.[2] Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là tất yếu trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, bản chất của nội hàm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã bao hàm vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Ngay tại Điều 2 Dự thảo khẳng định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” dẫn đến hệ quả là toàn bộ mô hình tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước không thể xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng ở nước ta. Tuy nhiên, việc quy định tại Điều 4 Hiến pháp hiện hành, cũng như Dự thảo vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản là cần thiết. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, là căn cứ xây dựng toàn bộ hệ thống pháp luật, điều chỉnh các mối quan hệ giữa nhà nước với các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội và công dân. Do đó, việc Hiến pháp khẳng định về mặt nguyên tắc Đảng "là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật" không phải do Đảng tự đề xướng, tự đề cao vai trò lãnh đạo của mình, hay áp đặt ý chí buộc Hiến pháp phải ghi nhận, mà là có tính chất bắt buộc đối với chính đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền, thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp. Ở nước ta, sự lãnh đạo của Đảng là tuyệt đối, sự lãnh đạo này không có sự chia sẽ cho bất kì một tổ chức, hội nhóm nào khác, và hễ một khi có chủ thể nào muốn tranh giành sự lãnh đạo ấy là đi ngược lại mong muốn của toàn thể dân tộc Việt Nam, là hành vi vi phạm pháp luật, phải bị trừng trị thích dáng.
Đảng làđại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”, vì thế mọi chính sách của Đảng đều vì nhân dân, phục vụ dân, để có được những chủ trương đúng đắn, phù hợp tình hình thực tiễn, Đảng phải xuất phát từ nhân dân, và phải chịu sự giám sát của nhân dân. Chủ trương của Đảng đóng vai trò quan trọng trong định hướng phát triển của toàn bộ xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Tuy nhiên, Đảng không phải là thần thánh, sẽ không tránh những lúc có những quyết định, chủ trương sai lầm, sai lầm ấy dẫn đến hệ quả vô cùng khó lường. Dự thảo đã bổ sung thêm đoạn Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.” Tuy nhiên, hiện nay sự lãnh đạo của Đảng, cũng như cơ chế giám sát, và cách thức chịu trách nhệm của Đảng trước nhân dân còn chưa được luật hóa. Hầu hết các nhánh trong bộ máy nhà nước, ở một cấp, một cơ quan, quyền và nghĩa vụ của từng chức danh trong bộ máy nhà nước đều được quy định rất rõ trong các văn bản pháp luật, nhưng chính lực lượng lãnh đạo cao nhất là Đảng Cộng sản lại chưa hề có bất kì một quy phạm nào điều chỉnh, sự thiếu xót này dễ dấn đến lạm quyền, tiêu cực trong nội bộ Đảng. Suy cho cùng thì tổ chức Đảng cũng chỉ là một thành viên của hệ thống chính trị, tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, nên chính Đảng Cộng sản cũng phải chịu sự điều chỉnh của Luật do chính Quốc hội – cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ban hành. Việc điều chỉnh phạm vi hoạt động của Đảng Cộng sản chỉ có thể được điều chỉnh bởi Luật, mà không thể là các văn bản dưới luật, vì thế nên sửa lại Khoản 3 Điều 4 Dự thảo như sau: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và Luật.”

-                      Hình thức thực hiện quyền lực nhân dân.
Theo quy định tại Điều 6 Hiến pháp năm 1992 thì “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.”
Hình thức thực hiện quyền lực nhân dân thể hiện như vậy là chưa đầy đủ. Thực tiễn đã cho thấy, ngoài thể hiện quyền lực của mình thông qua cơ chế đại diện như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, còn tồn tại hình thức dân chủ trực tiếp, người dân tự mình thực hiện quyền làm chủ đất nước, thể hiện rõ nét của hình thức này là quá trình trưng cầu dân ý hay sáng kiến pháp luật của nhân dân. Nhằm mục đích khắc phục nhược điểm này, Điều 6 Dự thảo đã quy định Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.” Bổ sung cụm từ “thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”, vậy cơ quan này là cơ quan nào,  tác giả cho rằng cách quy định như trên là không giải quyết triệt để vấn đề. Cách thức thực hiện quyền lực nhân dân nên được quy định rõ ràng hơn, để người dân có thể dễ dàng thực hiện quyền lực của mình.
Theo quan điểm của PGS.TS Thái Vĩnh Thắng nên sửa đổi lại Điều 6 Dự thảo như sau: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và  hội đồng nhân dân là những cơ quan  đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân,  do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Nhân dân còn có thể thực hiện quyền lực của mình thông qua hình thức trưng cầu dân ý, theo đó các vấn đề quan trọng của đất nước như bổ sung và sửa đổi  Hiến pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của Nhà nước về đối nội và đối ngoại, Nhà nước phải tổ chức trưng cầu dân ý lấy ý kiến nhân dân để quyết định”.[3]  Về cơ bản, tác giả đồng tình với quan điểm này, tuy nhiên, với tính chất là quy định các nguyên tắc cơ bản, Hiến pháp cần được quy định ngắn gọn, xúc tích, vì thế nên quy định ngắn gọn hơn. Tác giả đề xuất sửa đổi lại như sau: Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng hình thức dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và đối với các vấn đề quan trọng của đất nước như bổ sung và sửa đổi  Hiến pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của Nhà nước về đối nội và đối ngoại, Nhà nước phải tổ chức trưng cầu dân ý lấy ý kiến nhân dân để quyết định.
-                      Bổ sung nguyên tắc bầu cử tự do.
Trong nhà nước dân chủ, bầu cử được tiến hành để xác định quyền cho những người đại diện nắm giữ những cương vị chính trị. Một vấn đề quan trọng của Luật Hiến pháp là việc nhân dân lựa chọn (bằng cách bầu) đại diện của mình để giữ những chức danh nhà nước ở trung ương và địa phương - cơ sở để cho rằng nhà nước được nhân dân trao quyền và cũng theo đó mà hệ quả logic tất yếu theo tư duy dân chủ là nhà nước thực hiện quyền lực chừng nào nhân dân còn tín nhiệm. Như vậy, bầu cử là phương thức được sử dụng để quyền lực nhà nước thiết lập ra bởi nhân dân. Vì thế việc phản ánh trung thực ý chí của nhân dân là vấn đề cốt lõi của mọi cuộc bầu cử.[4] Từ cuộc tổng tuyển cử đầu tiên ở nước ta được tiến hành vào 6/1/1946 chúng ta đã tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Tinh thần ấy còn được giữ đến Hiến pháp năm 1992, và được giữ lại trong Điều 7 Dự thảo. Tuy nhiên, việc bầu cử là quyền tự do của công dân, công dân tự giác đi bầu, không có cơ quan nào, tổ chức nào ép buộc công dân phải thực hiện quyền này. Ý chí nhân dân là vấn đề quan trọng nhất của bầu cử bởi vì chỉ khi bầu cử hoàn toàn tự do, tự nguyện, thì ý nghĩa dân chủ đích thưc của nó mới đạt được.Từ đó, tác giả kiến nghị nên ghi nhận nguyên tắc bầu cử tự do vào Điều 7 Dự thảo, điều này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc Nhà nước ta là một Nhà nước dân chủ được quy định tại Điều 1 Hiến pháp.

2.                  Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Trong toàn bộ các vấn đề của loài người, quyền con người là những vấn đề có lịch sử lâu đời về cả phương diện thực tiễn cũng như lý luận. Đó luôn luôn là mối quan tâm của nhân loại ở mỗi thời kỳ phát triển của nó. Mỗi thời kỳ phát triển của quyền con người đều gắn liền và là thành quả của cuộc đấu tranh giai cấp, cách mạng, xã hội, phản ảnh quá trình nhân loại tự giải phóng mình.[5] Kể từ năm 2007, khi  Hiến chương ASEAN được  thông  qua,  các  quốc  gia  thành viên  đã  pháp  điển  hoá  và  cập  nhật một  cách có  hệ  thống  các nguyên  tắc và quy định phân tán  trước  kia,  tạo  cơ  sở  pháp lí  đầy đủ và  cụ thể  cũng  như  ràng  buộc  trách  nhiệm  pháp lí cho  quan  hệ  giữa  các  quốc  gia  thành  viên trong  quá  trình  hợp  tác  khu  vực  trên  các  lĩnh vực,  trong  đó  có  vấn  đề  nhận  thức  bảo  vệ quyền  con người.[6] Do vậy hiển nhiên những vấn đề đó cũng là điểm nóng trong công tác sửa đổi Hiến pháp lần này. Điểm mới đáng hoan nghênh trong Dự thảo sửa đổi hiến pháp lần này là Dự thảo đã bổ sung nhiều yếu tố về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, ghi nhận 16 quyền con người, kể cả người nước ngoài và người không quốc tịch. Đây không phải là lần đầu tiên chúng ta ghi nhận quyền con người, Hiến pháp 1992 và các bản hiến pháp trước đó đều có các quy định liên quan đến quyền con người, tuy nhiên nó được ghi nhận tản mát tại nhiều điều khoản khác nhau trong các chương khác nhau. Trong lần sửa đổi này, chúng ta đã quy định lại một cách rõ ràng, cụ thể quyền con người, và có sự phân biệt với quyền công dân. Qua quá trình nghiên cứu, tác giả có một số kiến nghị như sau:

-                      Quyền giám sát, phản biện của công dân.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Dự thảo thì Mặt trận phải vận động nhân dân giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, đây dường như là một chủ trương, một lời hô hào, vận động hơn là thiết chế để nhân dân có thể thực hiện quyền giám sát, phản biện xã hội của mình. Quyền giám sát, phản biện xã hội là quyền cơ bản của công dân, thể hiện sự làm chủ đất nước của nhân dân. Khi mà nhân dân trao quyền quản lý, làm chủ của mình cho Nhà nước để Nhà nước có thể hiện quyền làm chủ tốt hơn, công bằng và văn minh hơn, thì chính nhân dân phải có quyền giám sát các hoạt động ấy của Nhà nước. Khi thấy cần thiết, nhân dân sẽ phản biện lại các đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Và vì thế, quyền giám sát, phản biện cần phải được quy định bởi một Điều luật tại Chương 2. Khi có phản biện từ nhân dân Nhà nước có trách nhiệm tiếp nhận và phản hồi các ý kiến, kiến nghị của công dân thông qua hoạt động giám sát, phản biện xã hội, tạo điều kiện, bảo đảm cho công dân thực hiện quyền giám sát và phản biện xã hội.
Từ đó, tác giả đề xuất nên bổ sung thêm một điều tại Chương 2 với nội dung như sau: Công dân có quyền thực hiện quyền giám sát, phản biện xã hội các hoạt động của các cơ quan nhà nước. Cơ quan, người có thẩm quyền có trách nhiệm đảm bảo, tạo điều kiện cho công dân được thực hiện các quyền này theo trình tự luật định.

-                      Giới hạn quyền con người, quyền công dân.
Tại Khoản 1 Điều 15 Dự thảo : Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền con người, quyền công dân được Nhà nước và xã hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quy định này thể hiện sự tôn trọng các quyền con người, quyền công dân, nhưng sự tôn trọng và được bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật, tức sự thừa nhận ấy được giới hạn bởi các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Khoản 2 Điều này lại “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của cộng đồng” tác giả cho rằng quy định này đã bị thừa, bởi ngay Khoản 1 chúng ta đã xác định những quyền ấy được công nhận và được thể hiện với những giới hạn nhất định theo quy định của pháp luật, việc quy định thêm Khoản 2 này dễ làm cho Khoản 1 trở nên không còn giá trị. Bên cạnh đó, các khái niệm an ninh quốc gia, an toàn xã hội, đạo đức... khá mơ hồ và không hề dễ để định nghĩa chuẩn được, nó trở thành chỗ hở để bị lợi dụng mà tước bỏ quyền con người, quyền công dân. Từ đó, tác giả đề xuất nên bỏ khoản 2 Điều 21 Dự thảo hoặc bổ sung vào khoản này đoạn sau: “theo quy định của luật”. Và khi chưa có luật của Quốc hội về những trường hợp giới hạn quyền này của con người, của công dân thì không một ai có thể khước từ quyền con người, quyền công dân.

-                      Quyền được sống.
Quyền sống hay quyền được sống hay quyền sinh sống, quyền sống còn là thuật ngữ mô tả về một sự tin tưởng rằng con người hoàn toàn được quyền có điều kiện và các yếu tố cần thiết để sinh sống và không bị giết bởi một chủ thể khác (con người, nhà nước, các tổ chức....) về các vấn đề nạo phá thai, án tử hình, cái chết nhân đạo, giết người để tự vệ và chiến tranh. Quyền sống là một trong những nội dung quan trọng của Nhân quyền.[7]
            Nói về quyền được sống, Dự thảo đã đưa thêm một quy định mới, cụ thể tại Điều 21 Dự thảo Mọi người có quyền sống”, nếu quy định này có hiệu lực trên thực tế thì dẫn đến hệ quả là một cá nhân không bao giờ có thể bị tước bỏ quyền sống bởi bất kì một chủ thể nào, cho dù là người này đã thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, gây nguy hiểm đặc biệt cho xã hội, đe dọa đến sự tồn vong của nhân loại. Khi đó chúng ta phải sửa đổi Bộ luật hình sự hiện hành theo hướng bỏ hình phạt tử hình đối với tất cả các tội phạm đang có quy định về hình phạt tử hình. Tuy nhiên, sẽ là đáng ngại nếu như khi quy định về quyền được sống có hiệu lực mà Bộ luật hình sự chưa được sửa đổi theo hướng đó, thì vấn đề được đặc ra cần phải giải quyết là hiệu lực của hình phạt tử hình lúc này có hiệu lực hay không và việc một Tòa án căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự để tuyên phạt một người bị tử hình thì hành vi đó có vi hiến hay không? Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009, trong quá trình sửa đổi đã có nhiều chuyên gia góp ý về việc loại bỏ hoàn toàn hình phạt tử hình ra hệ thống hình phạt, tuy nhiên quan điểm đã không được chấp nhận, và chỉ loại bỏ đối với một số tội phạm nhất định, quyết định này là cần thiết và phù hợp với tình hình xã hội thực tiễn. Bên cạnh đó, xã hội chỉ phát triển đến một mức độ nhất định mà cụ thể chỉ khi Nhà nước thay mặt cho nhân dân vì lợi ích chung của cộng đồng có quyền tuyên tước đi tính mạng cá biệt của một cá nhân cụ thể với các quy định và trình tự thủ tục pháp lý cụ thể.
            Từ lập luận trên, tác giả xét thấy chúng ta nên có sửa lại Điều 21 Dự thảo theo một trong hai cách. Cách đơn giản nhất là loại bỏ quy định tại Điều 21 Dự thảo, tuy nhiên, tác giả cũng cho rằng quyền được sống là một quyền thiêng liêng và cao quý, Nhà nước ghi nhận quyền sống của con người chứng tỏ là Nhà nước dành sự quan tâm đặc biệt đến quyền con người, việc chúng ta không quy định quyền này thì e là thụt lùi so với các nước khác. Cách thứ hai là cách mà tác giả cho là khả thi hơn là bổ sung vào Điều 21 Dự thảo đoạn “trừ khi một người thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng được quy định trong Bộ luật hình sự”.

-                      Cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình của công dân.
Điều 26 của Dự thảo quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”. Liên quan đến các nội dung về tự do báo chí, hội họp, biểu tình, đã từng là những vấn đề khá nhạy cảm ở nước ta, người dân tiếp cận nó không thực sự tự do, thoải mái như đúng tinh thần mà Hiến pháp đã dành cho công dân của mình. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng dựa vào cụm từ “theo quy định của pháp luật” để hạn chế quyền biểu tình của công dân là vi hiến. Khi mà chúng ta chưa có các quy định pháp luật cụ thể để điều chỉnh nội dung này, trong khi Hiến pháp đã công nhận quyền này cho công dân, nên các quyền này phải được bảo đảm và thực thi trên thực tế, mà không thể bị hạn chế bởi bất kì một cơ quan nào. Bên cạnh đó để bảo đảm rằng các quy định này được bảo đảm nên bổ sung thêm quy định sau: “Cơ quan nhà nước trong nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải tạo điều kiện để công dân thực hiện các quyền này. Nghiêm cấm hành vi cản trở quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật”.

-                      Vị trí, vai trò của thanh niên.
Trong Dự thảo lần này đã bỏ đi Điều 66 Hiến pháp 1992, như vậy thì toàn bộ bản Hiến pháp mới dựa trên tinh thần của Dự thảo không hề có một điều khoản nào quy định về vai trò, vị trí của thanh niên. Trong khi hầu hết các giai cấp, tầng lớp quan trọng khác của xã hội đều được Dự thảo quy định trách nhiệm, quyền và nghĩa vụ để các họ thấy được vai trò, vị trí quan trọng của mình trong công cuộc xây dựng đất nước với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thiết nghĩ, thế hệ thanh niên ngày nay không chỉ có nhiều sức khỏe, mà còn rất nhạy bén, linh hoạt, thông minh, dễ dàng thích ứng với những tiến bộ của khoa học kĩ thuật hiện đại, Việt Nam không thể thiếu đi sự đóng góp của bộ phận thanh niên. Trong công cuộc xây dựng đất nước với bối cảnh hội nhập sâu và rộng, hòa nhập nhưng không hòa tan, mỗi thanh niên phải có lập trường tư tưởng vững vàng trước nhiều luồn văn hóa du nhập vào Việt Nam, và đặc biệt là trước những thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá, gây mất đoàn kết nội bộ dân tộc, thanh niên Việt Nam phải nắm rõ được trách nhiệm của mình trong xã hội năng động này. Và vì thế không nên bỏ Điều 66 Hiến pháp 1992, nên giữ lại quy định này, nó góp phần giúp cho mỗi thanh niên ý thức được tầm quan trọng của mình trong xây dựng đất nước phát triển.
-                      Công dân có quyền làm mọi việc mà pháp luật không cấm.
Nước ta theo truyền thống dân luật, coi văn bản pháp luật thành văn là nguồn luật chủ yếu để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ưu điểm của văn bản pháp luật thành văn là tính hệ thống và ổn định của nó, được ban hành theo một trình tự luật định, là sản phẩm trí tuệ của một tập thể người. Tuy nhiên, nó lại có một khuyết điểm rất lớn là không thể nào lường hết các sự việc xảy ra trong xã hội, lúc đó sẽ xuất hiện lỗ hổng pháp luật, bên cạnh đó theo thời gian, sự biến động không ngừng của xã hội đã để lại các quy phạm cũ lỗi thời, lúc này các nhà làm luật tiến hành sửa luật để điều chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội mới phát sinh, tuy nhiên quá trình này không có điểm kết thúc. Trong điều kiện ấy, sẽ xuất hiện trường hợp một cá nhân thực hiện hành vi có tính chất nguy hại cho Nhà nước mà hành vi ấy chưa được điều chỉnh bởi pháp luật thì liệu họ có bị xử phạt hay không?
Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, định hướng các quan hệ xã hội vận động theo khuynh hướng mà Nhà nước đã đặt ra, Nhà nước là chủ thể duy nhất và có trách nhiệm ban hành pháp luật để điều chỉnh xã hội, việc tồn tại lỗ hổng của pháp luật hay các quy phạm lỗi thời, không bắt kịp sự vận động của xã hội là lỗi của Nhà nước chứ không phải của nhân dân. Khi đó việc một người thực hiện hành vi, mà hành vi chưa được pháp luật điều chỉnh, hay bị cấm thực hiện thì họ có quyền làm. Tinh thần ấy cần phải được ghi nhận trong lần sửa đổi Hiến pháp sắp tới. Ghi nhận nguyên tắc “Công dân có quyền làm mọi việc mà pháp luật không cấm” sẽ là kim chỉ nam cho tất cả các nghành luật khác, là định hướng hoạt động cho tất cả các cơ quan nhà nước khi muốn xử lý một hành vi của một công nào đó.

3.                  Tòa án nhân dân.
Với quy định hiện hành thì hệ thống tòa án của chúng ta bao gồm Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự, có sự tách bạch giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự. Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 107 Dự thảo thì Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định, nghĩa là chỉ có một hệ thống tòa án duy nhất là Tòa án nhân dân, thậm chí Tòa án quân sự (nếu có) cũng nằm bên trong cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân. Đồng thời có nhiều điểm mới trong Dự thảo đã khắc phục được những hạn chế của Hiến pháp 1992 như việc bổ sung thêm cụm từ trừ trường hợp do luật định tại Khoản 1 Điều 108 về sự tham gia xét xử của Hội thẩm, tại khoản 4 Điều 108 về xét xử tập thể và quyết định theo đa số...Nếu đem so sánh với Hiện pháp hiện hành, thì nhiều văn bản pháp luật như Luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng dân sự đã vi hiến khi tại phiên tòa phúc thẩm không có sự tham gia của Hội thẩm (Điều 53 Bộ luật tố tụng dân sự quy định về thành xét xử phúc thẩm không có sự tham gia của Hội thẩm, Điều 244 Bộ luật tố tụng hình sự thì quy định về sự tham gia của Hội thẩm chỉ khi xét thấy cần thiết). Tuy nhiên, có hai vấn đề cần phải được bổ sung vào  Dự thảo lần này để mọi người cùng xem xét.
Thứ nhất: về quyền bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo.
Khoản 7 Điều 108 Dự thảo “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.” Như vậy, Dự thảo ghi nhận quyền bào chữa của những người này, đối tượng được hưởng quyền bào chữa theo Dự thảo rộng hơn so với Hiến pháp hiện hành, tuy nhiên, trên thực tế các cơ quan tiến hành tố tụng có thể tìm cách để hạn chế quyền này của họ. Và thực tế đã có rất nhiều trường hợp như thế, vì vậy cần phải quy định một cách mạnh mẽ và chắc chắn hơn về quyền bào chữa của công dân. Xét cho cùng thì quyền bào chữa vẫn còn cho đến khi họ bị kết tội bởi một bản án có hiệu lực pháp luật, nên cơ quan tiến hành tố tụng phải bảo đảm có sự tham gia của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng, khi không có người bào chữa thì người tiến hành tố tụng không được phép thực hiện các hành vi tố tụng nào, trừ khi chính họ đã từ chối quyền này. Điều này góp phần thể hiện nền văn minh, dân chủ của nước ta, và cũng là cách thức giúp cho những người bị buộc tội nắm rõ các quy định pháp luật để có quyết định phù hợp cho lợi ích của mình. Từ đó, tác giả đề nghị sửa lại Khoản 7 này như sau: Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm. Bị can, bị cáo có thể tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; đương sự có thể tự mình, nhờ luật sư hoặc người khác bảo vệ lợi ích hợp pháp. Người tiến hành tố tụng không được phép thực hiện bất kì hành vi tố tụng nào cho đến khi có sự có mặt của người bào chữa cho họ, ngoại trừ những trường hợp luật định.
Thứ hai: vai trò của án lệ.
Như đã phân tích ở trên, nước ta theo truyền thống dân luật, án lệ hay nguyên tắc án lệ không được thừa nhận. Tuy nhiên, ưu điểm của án lệ thì chúng ta không thể phủ nhận được, đó là tính linh hoạt, nhạy bén, kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội, sẽ không có trường hợp Tòa án không thể xử được vì không có luật điều chỉnh. Mặc dù trên phương diện lý luận, chúng ta phủ nhận vai trò của án lệ, nhưng thực tiễn xét xử, các thẩm phán thường xuyên có hoạt động xem xét các bản án của các tòa án khác có tình tiết tương tự với vụ việc mà mình đang giải quyết để làm nguồn cứ liệu tham khảo khi xét xử, thực tế này diễn ra khá phổ biến. Ngoài ra, các nhà làm luật sẽ không bao giờ có thể dự liệu hết được những vận động của xã hội để mà luật hóa, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, lúc ấy sẽ tạo ra lỗ hồng của pháp luật. Vì vậy chúng ta cũng nên thừa nhận án lệ như là một nguồn luật bên cạnh văn bản pháp luật thành văn. Xét cho cùng, thì Hiến pháp cũng là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng bị quy định bởi các quan hệ sản xuất của cơ sở hạ tầng, cho nên khi tình hình thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải ghi nhận án lệ thì Hiến pháp với tư cách là luật mẹ cũng không thể đứng ngoài được. Bên cạnh đó, về mặt pháp lý cũng đã có những hoạt động mang tính chất thu thập án lệ như : tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Từ những lập luận trên, tác giả mạnh dạn đề nghị nên bổ sung vào Khoản 3 Điều 109 Dự thảo như sau: Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm làm án lệ theo quy định của pháp luật.

4.                  Kết luận.
Các Nhà nước khi tiến hành cải tổ bộ máy, đổi mới phương thức hoạt động, quản lý, đều dành sự quan tâm đặc biệt tới bản Hiến pháp của mình, điều này là tất yếu khách quan bởi Hiến pháp không chỉ đơn thuần này một văn bản pháp luật mà vị trí của nó chỉ đứng sau bản tuyên ngôn độc lập, đứng trên toàn bộ các văn bản pháp luật khác, điều chỉnh toàn bộ bộ máy Nhà nước cũng như chính Đảng của nó. Một Nhà nước dân chủ, văn minh, thật sự độc lập thì nhất thiết phải có lấy cho mình một bản Hiến pháp được hình thành bởi ý chí và nguyện vọng đa số nhân dân nước đó. Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 1980 được thay bằng Hiến pháp năm 1992 và được sửa đổi và bổ sung năm 2001, và đang trong quá trình góp ý cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, tất cả các bản Hiến pháp đã , đang và sẽ rất cần sự đóng góp tích của tất cả nhân dân, tất cả các tầng lớp, giai cấp, thành phần khác nhau trong xã hội, có đảm bảo được hoạt động đóng góp của nhân dân cho Hiến pháp tốt thì bản Hiến pháp được ban hành mới phản ánh được tính dân chủ của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chắc chắn trong thời gian tới chúng ta sẽ có bản Hiến pháp 2013 với nhiều điểm mới, ưu việt từ chế độ chính trị, đến cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống cơ quan xét xét và đặc biệt là lần này chúng ta đã giành sự quan tâm đặc biệt đến quyền con người, quyền làm chủ của nhân dân đối với đất nước của mình, cũng như hình thành một số cơ quan mới. Hy vọng rằng, đây sẽ là bản Hiến pháp có sức sống mãnh liệt nhất trong tất cả các bản Hiến pháp của nước nhà, và nó sẽ trở thành điều kiện thuận lợi để Việt Nam hội nhập hơn nữa vào các quan hệ quốc tế.





[1] TS. Hoàng Văn Tú, Quan niệm về hiến pháp và xu hướng phát triển của hiến pháp, Tạp chí Luật học số 10/2011.
[2] Giáo trình Lí luận nhà nước và pháp luật – Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, tr. 351, năm 2012.
[3] PGS.TS Thái Vĩnh Thắng, Nhu cầu, phạm vi và nội dung sửa đổi hiến pháp năm 1992, Tạp chí luật học số 12/2011.
[4] Th.S Trần Thanh Hương, Ý chí nhân dân trong bầu cử và một vài ý kiến góp phần bảo đảm ý chí nhân dân trong bầu cử ở nước ta, Tạp chí khoa học pháp lý số 3/2006.
[5] Nguyễn Quang Hiền, Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, Tạp chí khóa học pháp lý số 02/2004.
[6] TS. Nguyễn Lan Nguyên, Hiến chương Asian và nhận thức bảo vệ quyền con người tại các quốc gia Asian, Tạp chí luật học số 7/2011.
[7] Theo http://en.wikipedia.org

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét